Cứ thế, tôi ở quê ngoại ăn ngon, ngủ kỹ, chơi vui hết một tháng rưỡi.
Hơn ba mươi ngày, nhưng thời gian lại trôi qua rất nhanh. Nhanh đến mức khi tôi còn chưa kịp nghĩ xem mình có thích nghi được với cuộc sống ở quê không thì tôi đã sắp phải về lại thành phố.
Một tháng này làm thay đổi hoàn toàn suy nghĩ của tôi. Tôi chẳng sợ hãi, bài xích, thậm chí… ghét khi phải về quê như ban đầu nữa. Tự mình sinh sống, trải nghiệm, tôi mới rõ cái gọi là “nghe nói” kia hoàn toàn không có thật. Ở quê đã có internet từ thời xa lắc xa lơ rồi, đồ ăn thức uống ở quê thì ngon khỏi bàn, và quan trọng là chẳng ai phải thức để cắt cỏ chăn trâu vào hai giờ sáng. Việc này, tôi nhất định phải phổ cập lại cho đám bạn ở trường của mình và cười vào mặt tụi nó như lúc đám Trung Ruồi cười tôi khi tôi kể chuyện “nghe nói” này vậy.
Còn đám Trung Ruồi, Thiều Quang, Thiều Hoa, bé Lam, đám bạn thân này của tôi, tôi cũng phải khoe.
Từ sau vụ bọn nó tá lả tìm kiếm vì nghĩ tôi đi lạc, bị bắt cóc ngày đó, rõ ràng là tình cảm giữa bọn tôi khác hẳn. Không thể nói rõ được là khác ở đâu, khác như thế nào. Chỉ biết rằng cảm giác “sao cũng được” khi mới gặp bọn nó, giờ đã đổi thành “quyến luyến, bịn rịn” mỗi khi tôi nghĩ đến ngày về lại thành phố.
***
Sáng, tiếng loa phát thanh vang lên bản tin sớm như thường lệ. Tôi bật dậy, đi ra khỏi buồng.
Ngoại tôi hôm nay không có ở nhà. Ngoại đến thăm bà dì tôi từ chiều hôm qua khi nghe bà dì đột ngột ngã bệnh. Bà dì ở một mình. Mới tuần trước còn bơi xuồng đến đây thăm ngoại mà hôm nay lại đột nhiên đổ bệnh. Chiều ấy, ngoại đòi dẫn tôi đến nhà dì út, hoặc ngủ với Trung Ruồi một đêm nhưng tôi lại ngại nhà dì xa, còn nhà Trung Ruồi thì đông người quá. Thế là tôi ngủ một mình ở nhà mà chẳng sợ sệt gì.
Tôi thức dậy, cho gà và heo ăn, gấp chăn màn, quét dọn nhà cửa một lượt.
Làm hết mọi việc, tôi ngồi trước hiên nhà buồn chán nhìn đám kiến đi thành từng hàng kiếm ăn.
Tuy chưa đa sầu đến nỗi nhìn thấy kiến mà cũng buồn, cũng thương cho được nhưng tôi vẫn chẳng thể kìm lòng, vẫn nghĩ ngợi vẩn vơ. Tấm thân nhỏ xíu ấy cần phải đi bao nhiêu chuyến, vượt qua bao nhiêu vết nứt, đá bụi, lá cây, cần phải chuyển bao nhiêu đồ ăn thì mới được nghỉ ngơi?
Đã làm con kiến mà còn phải khổ, huống chi là con người.
“Làm gì mà than ngắn thở dài thấy ghê quá vậy bạn?” Tiếng Trung Ruồi bất thình lình vọng bên tai làm tôi giật thót.
“Hết hồn!” Tôi thét lên.
Trung Ruồi đứng dựa vào cây cột nhà, một tay cầm trái ổi cắn răng rắc, tay còn lại đưa cho tôi một trái ổi khác. Thấy thế tôi lắc đầu: “Tao không ăn đâu.”
“Ăn đi.” Trung Ruồi ngồi xuống bên cạnh, dúi trái ổi vào tay tôi. “Tao lười cầm về.”
Tôi đành cầm lấy trái ổi, mắt vẫn nhìn chăm chăm vào lũ kiến.
“Đi qua nhà tao ăn cơm.” Trung Ruồi nói.
“Tao không đói.”
“Không đói thì ăn ít, đói thì ăn nhiều. Mày tính nhịn ăn hay sao mà cho cái gì cũng không ăn?” Trung Ruồi hất mặt bắt bẻ.
“Lát ngoại tao về rồi. Tao ăn với ngoại.” Tôi trả lời lại. Thật ra là tôi nói dối. Ngoại bảo có thể chiều mới về cơ.
Trung Ruồi nghe thế lại luyên thuyên, nào là bảo tôi chê cơm nhà nó, nào là đặt điều tôi nhịn ăn giảm béo, nào là… Ai, nói chung là nó nói nhiều. Và tôi thì không thể không cúi mình trước trận oanh tạc của nó. Thế là dù ngại không muốn ăn, tôi vẫn lết xác sang nhà Trung Ruồi ăn chực. Nhưng mà phải nói, cơm nhà Trung Ruồi ngon!
Một tô canh bầu nấu với tép bạc, một chảo tép rang mặn ngọt, thêm một đĩa rau xào mà tôi không biết tên.
“Ăn nhiều vô con.” Mẹ Trung Ruồi lại gắp một con tép to hơn cả ba ngón tay vào chén tôi.
Mọi người vừa ăn vừa hỏi chuyện. Hỏi ba mẹ tôi bây giờ làm gì, hỏi trường trên thành phố học có tốt không. hỏi mãi hỏi mãi, lại hỏi tôi khi nào về thành phố.
Trung Ruồi đang cúi đầu và cơm bỗng ngẩn phất đầu dậy. Nó ngậm một họng đầy cơm, léo nhéo trả lời: “Nó ở đây luôn chứ. Về gì mà về.”
Cha Trung Ruồi nghe thế thì cười, chú cóc đầu nó một cái nhẹ, lại nói: “Thằng nhỏ còn phải về đi học. Ở đây lang bạt giang hồ với mày hay sao?”
Trung Ruồi nuốt hết cơm, nó hếch mũi: “Nó ở đây cũng học được. Học chung lớp với con! Con làm đại ca cho nó dựa!”
“Không có đại ca nào ăn cơm cũng không nên thân.” Mẹ Trung Ruồi giơ tay lấy hạt cơm dính bên mép nó. “Con để dành buổi trưa ăn đó hả?”
Thế rồi cô bật cười, chú cười, ông bác - nội Trung Ruồi cười và tôi cũng cười. Chỉ riêng Trung Ruồi là nhăn nhó không phục.
Chẳng biết nó không vui vì bị cười cợt hay lại nặng lòng vì cuộc chia ly…
Sáng ấy ăn xong, Trung Ruồi giữ tôi lại để vót hai cây kiếm bằng tàu dừa với nó. Nó hứa cho tôi một cây, cây đẹp nhất, nếu như nó vót ra được hình hài cây kiếm. Tôi chẳng hình dung được cây kiếm nó muốn làm trông như thế nào, thế là tôi chỉ ngồi đó làm cu li - đưa cho nó một cây dao cùn, hoặc một cái cưa cũ, hoặc vét đóng vỏ vụn từ nhánh tàu dừa mà nó vót rớt xuống sang một bên cho gọn.
Ông nội Trung Ruồi ngồi trên võng mắc ngoài hiên. Miệng ông ngậm điếu thuốc, thỉnh thoảng lại chỉ dạy Trung Ruồi vài câu. Tiếng hát vang lên từ cái radio cũ ông đặt ở cái bàn bên cạnh làm không khí bớt lặng im.
“Con rạch Cái Thia chảy về Tắc Cậu, con sáo sang sông con sáo đậu hiên nhà. Trời tháng Tư em mặc áo hoa cà. Qua ngõ nhà anh, em kéo nghiêng vành nón, giả bộ vô tình làm rớt cánh bằng lăng.” (1)
“Hồi đó bà mày cũng giả bộ làm rớt đồ cho tao lượm.” Ông chầm chậm nói.
“Thôi. Ông lại nói xạo chứ gì?” Trung Ruồi trề môi.
Nội Trung Ruồi không để ý nó, ông rít một hơi thuốc rồi thả khói. Vẻ mặt ông qua lớp khói trắng hơi mờ mịt như đang chìm vào miền ký ức xa xưa nào đó.
“Bả hồi trẻ đẹp gái lắm. Già rồi thì đỡ hơn.”
Trung Ruồi nghe ông nói, nó nhảy dựng lên.
“Con méc bà nghen! Ông chê bà “xấu lão” chứ gì.” Nói rồi nó chạy vào nhà, nhìn lên di ảnh của bà ở giữa phòng khách mà vừa hoa tay, vừa kể tội ông mình.
Ông bác thấy thế cười khằng khặc. Ông nói lớn: “Tui chả chê bà xấu nhé. Thằng cháu bà nó dịch thế. Tui chỉ bảo bà bớt đẹp, nhưng vẫn đẹp. Bà đẹp bớt thế mới giống người. Chứ đẹp như hồi trẻ người ta lại tưởng tiên.”
Bà nội Trung Ruồi tất nhiên là không trả lời ông được, nhưng Trung Ruồi thì chẳng chịu yên, cứ chí cha chí chóe với ông. Thậm chí, nó còn xúi tôi hùa theo mấy câu. Ông Trung Ruồi từ đầu chí cuối chỉ cười khà khà, mặc cho nó lý sự.
Có lẽ vào xế chiều, lòng người ta trở nên bao dung hơn với những đứa trẻ ngờ nghệch như thế.
***
Chiều đó, ngoại tôi về.
Ngoại mang qua cho nhà Trung Ruồi một nón lá đựng đầy đài sen.
Lúc ngoại sang, tôi với đám bạn đang ngồi khoanh chân trước cái màn hình tivi nhỏ xíu nhà Trung Ruồi đợi Tây Du Ký. Từ hơn nửa tháng trước, cứ năm giờ rưỡi chiều, bọn tôi lại tập trung ở nhà Trung Ruồi.
Cô trải cho chúng tôi một cái chiếu trên nền gạch tàu. Còn ông bác thì nằm trên giá võng gần đó.
Nhưng trước giờ phim chiếu, giống như bây giờ, chúng tôi cần nhờ chú xoay xoay cây ăng-ten mấy cái để lọc hết đóng hột é trên màn hình.
"Được chưa con?" Chú hỏi.
"Chưa. Cha xoay về một chút. Sắp rồi… Rồi! Được rồi!" Trung Ruồi thét lớn lên để giao lưu với cha đang xoay ăng-ten ở bên vách nhà.
Lúc ngoại tôi sang, phim vừa mới chiếu xong đoạn giới thiệu.
"Bà ngoại về!" Tôi chạy đến mừng ngoại.
"Ừ. Coi phim đó hả?" Ngoại vuốt đầu tôi, nói tiếp. "Cứ coi đi. Lát nữa về ăn cơm."
"Con ăn rồi." Tôi nhanh nhảu trả lời. "Con ăn với Trung Ruồi rồi."
Ngoại tôi gật đầu. Rồi đi sang trái bếp, đưa cái nón đầy đài sen cho mẹ Trung Ruồi rồi ngồi trong ấy nói chuyện.
Thấy ngoại đi, tôi lại ngồi xuống xem phim.
"Mày xích ra." Thiều Hoa đang kê đầu nằm trên bụng Thiều Quang, nhỏ lấy chân đẩy nhẹ mông tôi sang chỗ khác vì chắn phải tầm nhìn của nhỏ.
Tôi hoảng hốt kéo quần lên, ngồi xuống luôn bên chân Thiều Quang.
Bé Lam ngồi xếp bằng, nghiêng cả người về phía trước, nhìn chăm chú vào tivi. Thỉnh thoảng bọn tôi lại bình phẩm mấy câu. Nào là con yêu quái kia xấu quá, nào là cái phép lộn nhào của Đại thánh nhìn ngầu như cái bồn cầ… à mà thôi… nói chung là nhìn ngầu.
***
Chú thích:
(1): Trích “Hoa tím bằng lăng”
Bình luận
Chưa có bình luận