Dennis trở về nhà lúc mặt trời gần lặn, thấy John đang nấu ăn trong bếp với một bộ óc tỉnhtáo và bằng một cảm xúc dịu dàng mãnh liệt. Một khía cạnh sâu xa mà thằng nhóc chưa từng được thấy hoặc nghi ngờ có tồn tại trong con người này.
“Ta không đòi hỏi một cái hôn. Nhưng nhóc bỏ quên cách ứng xử phải phép ở đâu rồi nhỉ?” John hỏi mà không quay mặt lại, giống như phía sau gáy gã có những con mắt mà Dennis chẳng thể thấy được.
“Chào dượng. Dượng nấu gì mà thơm quá,” nó nói, vẫn kinh ngạc trước tình huống John đứng bếp và làm công việc mà gã nhiều lần tuyên bố rằng nó thuộc về mấy mụ đàn bà và đám trẻ con chứ không thuộc về mình.
“Chào nhóc,” gã tử tế chào lại, vẻ tự phụ trong giọng nói thường ngày chợt biến mất. “Nhóc về muộn hơn thường lệ đấy. Mọi chuyển ổn cả chứ?”
“Mọi chuyện ổn cả. Dượng có cần cháu phụ giúp một tay không?”
John vờ như không nghe thấy Dennis vừa nói gì. Gã ngửa đầu ra sau với một thái độ rõ rệt hơn hẳn. “Nhưng mùi của mày thì không ổn cho lắm, nhóc ạ.”
Ruột Dennis quặn lại khi thằng nhóc đưa tay áo lên mũi ngửi và thấy rõ những khung hình khủng khiếp ở bãi đậu xe lúc chiều nay lại hiện ra; cảm nhận rõ được sức nặng của bộ dạng thê thảm của mình có thể là “thông tin buộc tội” trước cuộc điều tra nhỏ của John. “À, về chuyện này… Cháu đã tham gia lớp học thể chất vào chiều nay. ”
“Vậy đó là thứ mà ta đang hít phải - mùi mồ hôi. Ý nhóc là như vậy?” John mỉm cười, khoe ra những cái răng vàng xỉn màu của gã và lắc đầu. “Nhóc phải tự tin lắm mới dám tuyên bố thứ mùi ghê gớm đang cấu véo lỗ mũi ta là mùi cơ thể. Nó thậm chí còn khủng khiếp hơn cả nhà vệ sinh của ta nữa.”
“John, cháu xin dượng đấy,” Dennis gắt lên nhưng không cáu giận. Và cũng không có lý do gì để cáu giận với gã. Ít nhất là lúc này.
“Phải rồi. Gắt gỏng. Hẳn điều đó sẽ làm cho lời của nhóc trở nên đáng tin cậy hơn.”
Dennis tính bỏ đi, nhưng bị John giữ lại. “Mẹ nhóc không được khỏe. Bà ta đang nghỉ ngơi trong phòng ngủ.”
“Mẹ không được khỏe ư?” Dennis sốt sắng hỏi, cảm thấy khí nóng bốc lên đầu mình. “Sao dượng không nói điều đó luôn ngay từ đầu!”
“Vì ta không muốn bà ta vẫn phải lo lắng cho nhóc ngay cả khi bà ta không được khỏe,” John nói với một cái cau mày nhẹ, khuấy đều tay món súp sôi lục bục trong chiếc nồi kim loại bằng chiếc muỗng làm từ kim loại. “Trông lại người ngợm nhóc xem. Theo góc nhìn của nhóc, thì bộ dạng thảm họa ấy có giúp bà ta chóng hồi phục hơn không?”
Dennis ngỡ ngàng không thốt nên lời.
“Lên phòng của nhóc rồi làm sạch người đi,” John yêu cầu, không rời mắt khỏi chiếc nồi tỏa khói nghi ngút. “Và đừng trở xuống một khi còn chưa rũ bỏ được cái vẻ thảm hại ấy.”
Dennis gật đầu và đi lên phòng riêng. Vừa bước chân vào phòng ngủ, nó vớ nhanh bộ đồ đầu tiên đập vào mắt mình trong tủ quần áo và chạy vào phòng tắm, hững hờ mở đầu vòi rồi vỗ nước lạnh lên những vết bầm trên hai bả vai và bắp tay. Thật may mắn là bọn chúng đã không đánh lên mặt, nó tự nhủ rồi chột dạ tự hỏi liệu đó có phải là chủ ý từ trước của bọn côn đồ. Hoặc là mày đã xoay xở rất tốt, Dennis ạ.
Những hình ảnh nhục nhã về sự kiện bãi đỗ xe lúc chiều nay một lần nữa cuồn cuộn chảy về tâm trí Dennis. Nó bắt đầu vỗ nước lạnh tợn hơn lên những vết bầm đang dần chuyển màu tím tái. Chúng gây ra cảm giác lạnh nhức nhối và đau buốt. Nhưng bản thân nó lại không hề có ý định sẽ ngừng lại. Giống như thể nó đang tận hưởng sự uất hận đang không ngừng tiết ra từ những cơn đau ấy. Và rồi trong một khoảnh khắc nhất định, có một cái gì đó bất chợt bùng nổ trong ánh mắt của nó khiến nó bật khóc, rồi tự dìm đầu mình xuống chiếc bồn đầy nước và gào thét trong sự tĩnh lặng của căn phòng, trong một cơ thể giận run lẩy bẩy giữa những dòng nước lạnh ngắt.
Dưới nhà, bữa tối đã được John chuẩn bị đâu vào đấy. Gã múc ra một bát súp đầy khi vừa thấy mặt Dennis, rồi yêu cầu thằng nhóc đem bát súp cho Rosaline sử dụng nhân lúc nó vẫn còn nóng. Dennis gật đầu nhưng không nói một lời, bỏ John ở lại trong gian bếp và đi về phòng ngủ phía cuối dãy hành lang cùng với bát súp.
“Con mang đồ ăn tới cho mẹ đây.”
Dennis gõ hai lần lên cửa nhưng không nhận được phản hồi của Rosaline nên tự ý cho phép mình vào phòng. Bên trong căn phòng tối om om và im ắng. Thằng nhóc mất một lúc đánh vật với bóng tối mới mò được vị trí công tắc đèn rồi bật sáng. Lúc này, Rosaline đang nằm quay lưng ra hướng cửa, tư thế không có vẻ gì cho thấy bà đang trong trạng thái tỉnh táo.
Dennis nhẹ nhàng nhón chân lại gần chiếc giường, trọng lượng cơ thể khiến cho lớp ván sàn có tuổi kêu lên mấy tiếng cọt kẹt nhức óc. Tuy không muốn làm gián đoạn giấc ngủ của Rosaline chút nào, nhưng nó biết bát súp nên được sử dụng khi vẫn còn nóng và rõ ràng là bà cần phải ăn một chút gì đó để bổ sung năng lượng cho cơ thể.
“Cứ đặt nó trên tủ đầu giường giúp mẹ, nhé.”
Dennis hơi bất ngờ vì Rosaline còn thức chứ không ngủ như nó tưởng, và làm theo ý bà. “Mẹ thấy trong người sao rồi?”
Rosaline vùi nửa thân vào trong chăn khi Dennis ngồi xuống cạnh mình. “Có hơi đau đầu nhẹ. Nhưng mẹ ổn thôi.”
“Vậy mẹ đã kiểm tra nhiệt độ cơ thể chưa?”
“Rồi.”
Dennis cảm thấy có gì đó hơi lạ trong kiểu cách mà Rosaline trả lời. Bà không thường dùng những câu nói cụt ngủn để giao tiếp với nó. Hoặc là “mẹ làm rồi”, hoặc là “mẹ đã làm rồi, con yêu”. Hoặc là không gì cả.
“Mẹ có cần con lấy giúp gì không? Một cốc nước chẳng hạn.”
“Không.”
“Chà, lâu lắm rồi mới thấy dịp bà mẹ kiên cường của con đổ bệnh nhỉ?” Nó nói, cảm thấybầu không khí ngày càng chùng xuống và nghĩ rằng cần phải xua tan sự ngột ngạt trong căn phòng bằng một câu nói đùa, nhưng ngay lập tức thấy xấu hổ khi nhận ra câu nói đùa đó vô duyên và ngu ngốc tới cỡ nào. “Con xin lỗi. Con hoàn toàn không có ý đem sức khỏe của mẹ ra để đùa cợt.”
“Không sao,” Rosaline nói, vùi cơ thể chìm sâu hơn vào trong chăn.
“Mẹ muốn nói chuyện chứ? Cũng lâu lắm rồi hai mẹ con mình không có một cuộc trò chuyện tử tế nào ngoài chủ đề về nhữ–”
“Ra ngoài đi, Dennis,” Rosaline cắt lời thằng nhóc. “John có thể đang chờ con cùng dùng bữa. Đừng bắt ông ấy phải đợi.”
“Được rồi,” nó nói và đứng dậy, không còn muốn tìm kiếm cơ hội. “Hãy gọi con nếu mẹ cần thứ gì nhé. Và xin hãy dùng bữa.”
Rosaline bất thần bật dậy khỏi giường khi tiếng chân của Dennis đã gần ra đến cửa phòng. Bà gọi nó quay trở lại, mở ngăn kéo tủ giường rồi lôi ra một lọ nhựa trong suốt. Những viên thuốc an thần. Đối với Rosaline, điều này còn quan trọng hơn cả việc liệu bà có sức khỏe tốt hơn vào ngày mai để đủ khả năng quay trở lại với công việc hay không. Trao cho Dennis những viên thuốc an thần là việc tối quan trọng mà bà cần phải thực hiện mỗi ngày.
Dennis nhìn xoáy vào lọ thuốc quen thuộc không nhãn dán đang nằm giữa lòng bàn tay Rosaline và thở dài. Nó miễn cưỡng nhận lấy lọ thuốc và định rời đi, nhưng bị Rosaline giữ lại bằng cái nắm tay thật chặt. “Đừng quên uống thuốc nhé, con yêu.”
Dennis chỉ ậm ừ cho xong, phần lớn để ý tới đôi mắt của Rosaline nhiều hơn. Chúng xuấ thiện dưới dạng những vân máu đỏ và mí mắt hơi sưng của một người vừa mới khóc. Thật không khó để Dennis nhận ra Rosaline đang cố giấu giếm một chuyện gì đó, và điều đó hiển nhiên đang khiến bà phải khổ sở. Sở dĩ Dennis biết thế là bởi vì chính bản thân nó cũng đang làm điều tương tự. Giữa cả hai mẹ con họ đều đang giữ chặt trong tay mỗi người cái hộp chứa đầy những bí mật làm họ khổ sở, được giấu kín phía sau những lớp xích sắt kiên cố và được niêm phong bằng cái ổ khóa dưới cái tên: Thông đồng. Không biết bắt đầu từ khi nào mà thái độ độc hại này hình thành, nhưng nằm giữa khoảng cách hai mẹ con Dennis luôn có những chiếc hộp chứa đầy những bí mật mà họ giấu kín, luôn giấu kín, và ngầm thông đồng không cho phép nhau công khai nó với đối tượng còn lại. Vì cả hai đều tin rằng, làm như vậy nghĩa là họ đang bảo vệ lẫn nhau.
***
Công việc chính của Rosaline là làm bồi bàn tại một nhà hàng México nằm giữa trung tâm thành phố. Với mức thu nhập kha khá và môi trường làm việc thân thiện, những người lao động như bà quả thật không thể đòi hỏi gì nhiều hơn ngoài hai điều kiện tuyệt vời ấy. Và vì lẽ thế, bà đã trở thành một trong những nhân viên có thâm niên lâu năm nhất của nhà hàngnày.
Trưa hôm nay tại nơi làm việc của Rosaline.
Reng!
Tiếng chuông cửa reo vang báo hiệu nhà hàng vừa có những vị khách mới. Rosaline lúc này đang tất tả rời khỏi khu vực nhà bếp cùng đồ ăn của những vị khách đã đặt hàng trước đó. Bà đặt những đĩa thức ăn hấp dẫn lên mặt bàn trải khăn trắng với một thái độ nhiệt tình nhất và giới thiệu lại cho họ tên gọi của món ăn cùng tên gọi của món nước sốt, kèm theo một lời chúc ngon miệng. Khi bà rời đi, tay quản lý nhà hàng liền áp sát và trao tay cho bà tờ thực đơn cùng trọng trách tiếp đãi vị khách mới đến.
“Cậu không muốn cho tôi thời gian để thở dù chỉ một giây có phải không, Frankie?”
“Tất nhiên rồi, chị Rosie. Tôi vốn là một kẻ quá quắt thế đấy,” Frankie ghé tai Rosaline và nói. Vốn là những người bạn thân thiết, nên cả hai không ngại đùa giỡn với nhau khi có dịp. “Hãy suy nghĩ về nó khi tay chị cầm những đồng tiền boa hậu hĩnh của khách nhé, đồ quỷ cái.”
Frankie là một anh chàng đồng tính, nhỏ hơn Rosaline năm tuổi. Và cũng giống như nữ đồng nghiệp của mình, anh là một trong những nhân viên có thâm niên làm việc lâu năm nhất tại nhà hàng này.
Vị khách mới đến là một người đàn ông, ngồi ở góc xa phía bên kia nhà hàng. Ông ta giữ nguyên cặp kính râm trên mặt ngay cả khi đã ngồi vào bàn ăn và hướng phần lớn góc cơ thể về phía cửa sổ - một dạng thái độ cáu kỉnh của những vị khách không hài lòng về bữa ăn và đang chờ tờ hóa đơn được đem đến trên khay bạc để có cơ hội được phàn nàn với tay bồi một lần cuối, trước khi cuốn xéo khỏi chốn quỷ tha ma bắt này mãi mãi cùng một lời chúc mong nhà hàng sớm phá sản. Nhưng điều đó không thể khiến cho Rosaline bối rối. Với kinh nghiệm lâu năm, bà ngầm hiểu rằng người đàn ông đó là một vị khách lần đầu đặt chân đến nhà hàng và chỉ đang hoài nghi về quyết định của mình.
“Chào mừng quý khách đến với Alejandro’s.” Rosaline đặt tờ thực đơn song song với vị trí ngồi của vị khách hàng bằng một cái cúi người như một lời chào đón chuyên nghiệp và mỉm cười.
Vị thực khách tỏ ra không mấy mặn mà với tờ thực đơn của Rosaline. Một dấu hiệu không mấy khả quan cho lắm. “Ngài muốn nghe giới thiệu qua về món đặc biệt của ngày hôm nay chứ?”
Thay vì trả lời “có” hoặc “không”. Bất ngờ thay, ông ta ném vào Rosaline một ánh nhìn chằm chằm đầy khiếm nhã phía sau cặp mắt kính, khiến bà cảm thấy không thoải mái và muốn rời đi. “Tôi hiểu rồi, thưa ngài. Tôi sẽ quay lại sau ít phút nữa.”
“Lâu rồi không gặp, Rosaline. Trông cô em tươi trẻ hơn là tôi tưởng đấy,” người đàn ông cất tiếng, giữ Rosaline lại trước trước khi bà kịp rời đi.
Rosaline ngỡ ngàng hỏi lại ông ta. “Tôi xin lỗi?”
Người đàn ông giật cặp mắt kính khỏi tai như một lời thách thức. Rosaline khá chắc rằng miệng của bà đã há hốc hoàn toàn khi nhìn thấy trọn vẹn khuôn mặt của người đàn ông ấy. Đó không phải do ấn tượng ông ta bị chột con mắt bên trái vì bị đâm bởi một vật gì đó có đầu nhọn; mà do bà nhận ra khuôn mặt người đàn ông này - mặc dù lần cuối cùng cả hai nhìn thấy nhau đã từ hơn mười bốn năm về trước. Nhưng bà nhận ra khuôn mặt đáng nguyền rủa của gã.
“Bằng cách nào mà anh tìm được tôi? Thuê thám tử ư?”
“Thế giới nhỏ bé mà, cô em,” gã chột nói. “Ít nhất thì cô em cũng nên thay tên đổi họ nếu muốn trốn chạy nghiệp chướng của mình chứ.”
Tầm nhìn của Rosaline gần như mờ đi trong mắt bà vì cơn giận. “Tôi yêu cầu anh cút ra khỏi đây càng nhanh càng tốt.”
“Bình tĩnh lại nào, Rosaline. Cô em đang tự đẩy mình vào tình thế bất lợi đấy.”
Thái độ thách thức của gã chột như tiếp thêm động lực cho Rosaline. “Tôi hài lòng chấp nhận rủi ro ấy,” bà nói, vung ngón tay trỏ ra hướng cửa. Đôi mắt ánh lên những tia lửa thiêu đốt. “Anh có ba mươi giây để bước chân ra khỏi cánh cửa đằng kia và không bao giờ quay trở lại nơi này. Nếu không, tôi buộc lòng phải gọi cảnh sát.”
“Cô chắc về điều đó chứ, Rosaline?” Gã chột đổi giọng và vạch áo lên, khoe ra phần báng súng bóng bẩy của khẩu Ruger P89 (1) bán tự động mà gã giắt giữa lưng quần. “Cô nghĩ cảnh sát sẽ mất bao lâu để di chuyển tới đây? Nhanh thì năm phút, chậm hơn thì mười? Và trong khoảng thời gian đó sẽ có bao nhiêu cái xác được đưa vào tủ lạnh bởi khẩu súng này. Bài toán đơn giản thôi. Tự tính đi, Rosaline.”
Rosaline nhìn kỹ hình dáng lô-gô phượng hoàng lửa lộn ngược trên báng khẩu súng ngắn mờ đi trong mắt mình (ngầm đoán khẩu súng được sở hữu trái phép) trước khi nó bị gã chột giấu nhẹm trở lại phía sau lớp áo khoác. Mấy lát bánh mì trắng của bữa ăn vội sáng nay đang hò nhau trỗi dậy trong dạ dày bà sau hành động mang tính chất đe dọa khủng khiếp của gã chột, khiến bà cảm thấy nôn nao phát bệnh và gần như không thở nổi.
Các cơ mặt gã chột từ từ giãn ra. “Đừng có phát ngôn ra những lời mà cô không thể trả giá cho nó, Rosaline.”
“Mày là đồ sát nhân!” Bà quát lên, cả hai tay đập xuống bàn. “Mau cút ra khỏi nơi này.”
Rosaline lập tức cảm thấy hối hận và muốn rút lại lời nói của mình. Nhưng dù muốn hay không muốn, cơn bộc phát của bà đã nghiễm nhiên trở thành cục nam châm hút hết mọi ánh nhìn của những người có mặt tại nhà hàng.
Gã chột đứng thẳng dậy. Và trong một khoảnh khắc, Rosaline gần như phát hoảng vì sợ gã sẽ thực hiện những gì mà gã đã nói với bà trước đó: giao cho bà bài toán giả định mà bà không dám đưa ra những phép tính.
Vậy nhưng điều đó đã không xảy đến. Gã giữ nguyên bộ mặt trung lập, một bộ mặt không cáu giận hay thách thức. “Gặp tôi ở con hẻm phía sau nhà hàng. Mười phút nữa. Vì lợi ích của riêng cô.”
Nói xong, gã chột rời khỏi nhà hàng trong cái nhìn đầy hoang mang của Frankie và những vị thực khách. Điều tương tự cũng xảy ra với Rosaline. Bà bỏ qua dấu hỏi lớn to đùng đang choán hết vầng trán họ. Không nói một lời mà đi thẳng về khu vực nhà bếp.
Frankie đuổi theo Rosaline ngay sau khi anh ta bàn giao cái việc mà anh chàng tạm gọi là “chuyện ấy” (hiển nhiên là đã quên khuấy mất nó là cái gì) cho một tay bồi trẻ tuổi.
Từ bên ngoài, Frankie đẩy cửa nhà bếp, vô tình va trúng Rosaline đang ngồi sụp dưới góc tường. Nhưng anh chàng quyết định sẽ không xin lỗi bà ta về chuyện này, vì bà ta đang khiến anh nổi cáu. “Chị Rosie, phiền chị giải thích cho tôi việc quái gì vừa diễn ra ngoài kia được chứ?”
Rosaline quệt tay ngang má, xụt xịt. “Không phải lúc này, Frankie. Làm ơn.”
Rosaline đang khóc, và Frankie rõ ràng không phải là một kẻ ngốc mà không nhận ra điều hiển nhiên đó. Anh chàng còn rất muốn hỏi lý do vì sao bà lại khóc nữa là đằng khác. Nhưng trách nhiệm của một người quản lý buộc anh luôn phải đặt lợi ích của nhà hàng lên trước tiên. “Thứ lỗi cho tôi, chị Rosie. Nhưng công việc là công việc. Chúng ta vừa mất đi một vị khách hàng tiềm năng. Và là một người quản lý nhà hàng, tôi có trách nhiệm tìm hiểu lời giải thích hợp lý cho vụ việc ấy.”
“Giật nước đống trách nhiệm thối hoắc của cậu đi, Frankie.” Rosaline đứng dậy, ấn cuốn phiếu đặt hàng và cái bút chì vào tay anh. “Cứ đuổi việc tôi nếu cậu muốn. Tôi không thể tiếp tục thế này được nữa.”
“Đợi đã nào, Rosie,” Frankie chạy lên trước đón đầu bà. “Được rồi, được rồi. Sẽ không có ai đuổi việc ai cả, được chứ? Hãy nói với tôi đi. Rốt cuộc thì ông ta đã làm gì mà khiến chị suy sụp như vậy.”
Rosaline không trả lời câu hỏi đó, vì bất cứ điều gì mà bà nói ra lúc này cũng có thể dẫn tới hàng ngàn câu hỏi khác, và bà hiện tại thì không còn tâm trạng cho mớ rắc rối ấy. “Tôi cần nghỉ buổi hôm nay, Frankie. Cậu xếp người thế chân giúp tôi được chứ?”
“Không thành vấn đề,” Frankie nói. “Giờ không tiện, nhưng chúng ta sẽ nói về chuyện này sau nhé? Ở một nơi nào đấy bớt ồn ào hơn chỗ này chẳng hạn?”
“Mẹ cậu không dạy cậu phải tránh xa rắc rối, đặc biệt khi nó không phải là của cậu hay sao, Frankie?”
“Tôi không có bất kể mối liên lạc nào với gia đình mình đã hơn mười lăm năm rồi, Rosie. Và chị biết rõ điều đó hơn ai khác.”
Rosaline ngẩn người ra trong giây lát. Cảm giác tội lỗi sai khiến bà chỉnh sửa lại búi tóc mặc dù bản thân bà không hiểu tại sao mình lại làm chuyện đó. “Thứ lỗi cho tôi, Frankie. Cái tôi ích kỷ đã khiến tôi nói ra những điều không nên.”
“Quên chuyện này đi,” Frankie bảo, hơi phật ý nhưng không để bụng. “Ngoài vụ sắp xếp người ra thì chị còn cần tôi giúp điều gì khác nữa không?”
“Không, Frankie. Cậu đã làm những điều tốt nhất cho tôi rồi. Cảm ơn cậu,” bà ngẩng lên nhìn anh với vẻ mặt biết ơn. “À, mà có đấy. Cậu có điếu thuốc nào ở đó chứ?”
***
Nhà bếp Alejandro’s có một cánh cửa dẫn trực tiếp ra con hẻm phía sau để phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau của nhà hàng; đây cũng là nơi mà gã chột đã hẹn Rosaline trướcđó. Một địa điểm gặp gỡ không hấp dẫn gì cho lắm, vì đặc tính nhơ nhớp và bốc mùi của vô số những thùng rác thải công nghiệp.
Hình bóng của gã chột xuất hiện trong bóng tối đầu con hẻm cùng với một người nữa, khi Rosaline rít được phân nửa điếu Marlboro. Bà khoanh tay đứng nhìn khuôn mặt đángnguyền rủa của tên sát nhân
đang tiến lại chỗ mình, rồi hết ngạc nhiên khi nhận ra người đang đi cùng gã.
“Mày lôi cả cậu ta đến đây ư, Paul?” Bà hỏi gã chột với vẻ không tin nổi.
“Cô quan tâm làm quái gì cơ chứ?” Paul nói, xoa đầu tên đàn ông trung niên béo ị có vẻ ngoài ngờ ngệch đi cùng gã như thể khen ngợi một con chó. “Mụ già chết rồi. Giờ thì nó là trách nhiệm của tôi.”
Người đàn ông ngờ nghệch đó là em trai gã, tên cúng cơm là Kyle, nhưng thường được gọi bằng cái tên thay thế: Lò Xo. Ngay từ khi sinh ra, bản thân Lò Xo đã được chuẩn đoán mắc chứng chậm phát triển. Nói trắng ra là thiểu năng trí tuệ. Chính vì thế mà dù tuổi đã hơn ba mươi lăm, nhưng ảnh hưởng từ căn bệnh khiến cho hắn chẳng khác nào một đứa trẻ lên bốn. Bản thân Paul nghĩ rằng Lò Xo bị như vậy là do mẹ gã nốc rượu và chơi ma túy thường xuyên khi bà ta mang thai Lò Xo. Nhưng cá nhân mụ đàn bà ấy lại cho rằng đó là do lỗi lầm từ người cha bội bạc của gã, vì đã bỏ rơi bà ta để chạy theo lũ gái điếm biết múa cột. Có đôi lần, bà ta cũng đổ lỗi cho cả gã nữa. Vì mày đã khôn hết phần của nó rồi còn gì, bà ta nói.
“Chị Rosaline, lâu lắm mới gặp lại chị,” Lò Xo mừng rơn, lạch bạch chạy qua ôm lấy bà. “Dạo này chị có khỏe không?”
Rosaline đón nhận cái ôm của Lò xo, vuốt má gã. “Ồ, cưng vẫn còn nhớ tên chị cơ à? Giỏi quá. Chị vẫn khỏe. Cám ơn cưng.”
Tự dưng, Paul quát rống lên khiến cho em trai gã run bắn người. “Lò Xo, quay lại đây. Đừng có xán vô con đàn bà đó như thể hai đứa mày thân thiết lắm vậy.”
“Cư xử tử tế hơn một chút cũng không làm hình tượng khốn nạn của mày hao mòn đi tí nào trong mắt người khác đâu, thằng chó ạ,” Rosaline nói, rồi bà vỗ vỗ vào lưng Lò Xo, an ủi gã. “Gặp nhau như thế là mừng rồi. Giờ cưng mau qua bên kia để bọn chị nói chuyện, ha.”
Lò Xo vui vẻ đồng ý. Đợi tới khi Lò Xo đi đủ xa, Rosaline mới quay sang Paul và ném cho hắn một tia nhìn căm thù. “Giờ thì nói đi, mày muốn gì ở tao?”
“Cô vội vàng gì chứ?” Gã nhếch mép nói. “Đã mười bốn năm trôi qua nhưng cô em chẳng chịu thay đổi tính nết chút nào. Vẫn khô khan và bộc trực như mấy thanh củi nhóm lò vậy.”
“Còn mày thì vẫn thế, Paul ạ, vẫn dài dòng mãi không dứt như những cơn tiêu chảy vậy. Đều đáng kinh tởm như nhau cả.” Bà rít một hơi thuốc rồi thổi vào mặt gã. “Giờ thì nói nhanh đi, tao không có nhiều thời gian để chơi trò mèo vờn chuột với mày đâu.”
Thái độ tưng tửng của Paul tan theo làn khói xám vây quanh mặt gã. “Được thôi. Hiển nhiên là sau mười bốn năm xa cách, giữa hai ta đã có những khoảng trống không thể lấp đầy rồi nhỉ,” gã nói. “Tôi muốn nhận lại phần tiền làm ăn của mình chưa được chia. Ba mươi ngàn đô. Nể chỗ thân quen, tôi sẽ không bàn tính tới chuyện lãi xuất, nhưng cô không được phép trả thiếu một xu. Và đừng quá lo lắng, Rosaline. Tôi vẫn đủ tử tế để cho cô em thời gian chuẩn bị số tiền. Hạn giao tiền là vào Chủ nhật tuần sau.”
“Ba mươi ngàn đô? Và phải đưa cho mày vào cuối tuần sau?” Rosaline chớp mắt liên tục, vẻ không tin nổi. “Ôi, thứ súc sinh chết tiệt này. Hồi xưa mẹ mày luôn quả quyết cho rằng mày không bị thiểu năng, nhưng tao lại chắc chắn là có đấy. Tao sẽ không nhả ra một đồngnào vì tiền “làm ăn” là chuyện riêng giữa mày và Joseph. Nếu mày đủ bản lĩnh thì hãy xuống địa ngục mà nói chuyện trực tiếp với anh ấy. Tao cá rằng hơn ai hết, mày là người mà Joseph muốn gặp lại nhất trong tất cả chúng ta đấy, Paul ạ. Và hơn nữa, sau tất cả những tai họa mà mày đã giáng xuống gia đình tao, mày vẫn nghĩ mình có đủ tư cách để đưa ra một lời đòi hỏi sao? Làm ơn đi, Paul! Đừng có chọc cười tao. Chẳng có lý do quái nào mà tao phải đưa tiền cho mày cả.”
Paul tỏ ra vô cùng khó chịu trước những lời công kích của Rosaline. Gã xốc bà lên và ấn bà vào tường, khiến hai vai bà tê dại cả đi. “Vểnh tai lên mà nghe cho rõ đây, con chó cái. Nhờ vào hồng phúc mà thằng chồng mày ban cho, tao đã phải chịu đựng đủ thứ cứt đái của mấy tay quản giáo và đám bạn tù suốt mười bốn năm trời đằng đẵng. Ba mươi ngàn đô để bù đắp cho mười bốn năm tự do đã mất của một người đàn ông là cái giá quá mức rẻ mạt. Chưa kể, tao hoàn toàn có thể mách lẻo với những người bạn cũ của chúng ta về nơi ở hiện tại của mày. Họ chắc hẳn sẽ rất hạnh phúc khi được biết thông tin ấy đấy, mày hiểu chứ? Vậy nên hãy khôn ngoan, Rosaline. Vì một khi tao làm thế, mày chắc chắn sẽ mất nhiều hơn là số tiền ba mười ngàn đô.”
Rosaline dí tàn thuốc lên cẳng tay của Paul khiến gã bị bỏng và buộc lòng phải thả bà ra. “Mày đã giết chồng tao, Paul. Và đừng quên rằng, anh ấy là bạn thân của mày.”
“Đúng vậy. Hắn là bạn thân của tao, và hắn đã bán đứng tao cho lũ cớm.” Gã chột tặng cho Rosaline một cái tát đau nổ đom đóm mắt để trả thù vụ dí tàn thuốc. “Vì thế, tao chưa từng một lần hối hận vì đã đoạt cái mạng của thằng chó đẻ phản trắc đấy. Cảm ơn chương trình đặc xá tù nhân.”
“Cút đi, Paul. Cút ngay đi trước khi tao nổi cơn tam bành,” Rosaline ngẩng lên nhìn gã bằng ánh mắt chất chứa căm thù. “Tao hoàn toàn có thể đẩy mày vào tầm ngắm của bọn cớm, hoặc thậm chí là vào tù lần nữa chỉ với một cuộc điện tố cáo. Mày hiểu chứ? Cứ nghĩ thử đi. Một gã đàn ông vừa ra tù vì tội danh giết người lập tức di chuyển nửa vòng đất nước để tìm gặp vợ nạn nhân mà gã đã sát hại mười bốn năm về trước? Tao thậm chí còn chẳng cần phải chứng minh với họ động cơ của mày là gì. Chỉ cần sự có mặt của mày ở thành phố này cũng đủ để đám cảnh sát mở một cuộc điều tra ngầm rồi.”
Paul nhe răng cười. “Hãy để cuộc đối thoại nho nhỏ của chúng ta trở nên hấp dẫn hơn chút nhé.” Gã túm tóc dựng Rosaline dậy và giơ lên trước tầm nhìn của bà màn hình chiếc di động được đặt trong chế độ xem ảnh và nói: “Hãy để tao khai sáng cho mày thấy hậu quả nếu mày dám liên lạc với lũ cớm, con chó cái.”
Nội dung được hiển thị trên màn hình chiếc di không có gì nhiều ngoài một bức ảnh. Nhưng nó lại là một bức ảnh có tác động rất lớn lên tinh thần của Rosaline. Bởi vì đó là bứcảnh chụp lén Dennis ban sáng, lúc thằng nhóc trên đường tới trường.
“Paul? Mày đã làm gì nó? Mày đã làm gì con tao trai rồi?”
Bản năng của người làm mẹ trong Rosaline trỗi dậy. Bà ra sức vùng vẫy trong vòng tay gã chột như một con chó điên bị kích động, không ngừng cấu véo lên cánh tay đầy sẹo của gã. Paul nhanh chóng phải cầu cứu sự trợ giúp của Lò Xo để khống chế Rosaline. Ban đầu Lò Xo từ chối làm việc đó, nhưng vì quá sợ hãi anh trai mình, gã đành phải tuân theo. Hai gã đàn ông to lực lưỡng hợp sức nhưng phải vất vả lắm mới trấn áp được người đàn bà nhỏ chỉ bằng một nửa chúng. Chúng quật bà xuống tư thế quỳ gối và ghìm bà vào thế bị khóa cứng chữ X. Cưỡng chế bà, làm cho bà không cách nào tổn thương ai trong số chúng được nữa. Ít nhất vào thời điểm này.
“Chưa có chuyện gì xảy ra với thằng nhóc cả,” Paul hét vào tai Rosaline. “Chưa phải là lú này.”
“Thề có Chúa, Paul. Tao sẽ khiến mày phải ước mình chưa từng được sinh ra nếu mày dám đặt một ngón tay lên người thằng bé.”
“Và tao tin lời mày, Rosaline,” Paul nháy mắt ám hiệu cho Lò Xo (hành động này của gã chột xuýt khiến Lò Xo cười phá lên, vì nó làm khuôn mặt tròn ung ủng có cái trán cao vống với mấy chỏm tóc thưa trên đỉnh đầu gã như bị biến thành một quả cả chua chín nẫu với hai mắt nhắm tịt) cùng lúc thả Rosaline ra, cho bà có không gian để bình tĩnh trở lại. “Cả hai ta đều có những thứ quan trọng cần phải bảo vệ, e sợ viễn cảnh đánh mất chúng. Nhưng biết sao không? Tao vốn dĩ đã mất đánh mất thứ quan trọng nhất của mình từ lâu rồi. Cuộc đời tao vốn đã lún sâu xuống đấy bùn lầy nhờ vào người bạn thân - ông chồng đáng kính của mày đấy, đồ chó cái ạ. Tao hiện giờ chẳng còn gì để đánh mất cả. Nhưng mày thì có đấy.”
Những gì Paul đang cố bày vẽ ra trước mắt Rosaline là một đòn tâm lý. Một trò mà gã học lỏm được từ mấy tay quản tù chuyên dùng để trị những tên tù nhân rắn mặt. Mấy thằng cha đầu toàn sỏi đấy sẽ đánh thẳng vào tâm lý đối tượng mà họ cần răn đe bằng một thứ hình phạt mà bất kể tên tù nhân nào cũng sợ chết khiếp mỗi khi nghe đến - mặc dù nó đơn giản chỉ là hai tiếng tự do bay nhảy mỗi ngày trên cái vạt đất bé tẹo rộng chừng một phần ba sân bóng chày, bị bao quanh bởi bốn lớp tường bê tông cuốn đầy gai thép phía trên đỉnh, và được canh phòng nghiêm mật dưới sự bao quát của những tay lính được trang bị vũ khí, không ngại cho lũ tù nhân “ăn” dùi cui điện khi chúng dám lệch sóng.
Dù có là bất kể loài động vật bậc thấp hay cao đi chăng nữa, cứ hễ là có linh tính thì sẽ luôn có thứ quan trọng khiến chúng lo sợ viễn cảnh thứ quý giá ấy bị tước đoạt.
Và có lẽ ý đồ của Paul đang phát huy tác dụng thật. Gã có thể cảm thấy sự vụn vỡ tinh thần tương đối trong đôi mắt của Rosaline, giống hệt với đôi mắt vụn vỡ của những tên tù nhân rắn mặt trước và sau khi chúng bị lũ quản tù nhét vào căn phòng bọc tường xốp và biệt giam chúng trong đấy đến cả tuần liền.
“À há,” Paul ngậm cái tiếng ồm ồm trong miệng. “Chúng ta hiểu nhau rõ hơn rồi đấy. Tao nghĩ thế. Giờ thì nghe này,” gã nói, cũng phải lấy làm bất ngờ vì việc đốn hạ tinh thần Rosaline có vẻ dễ dàng hơn gã tưởng (cho rằng quản tù là một nghề rất hợp với gã. Có thể sẽ cân nhắc đến trong tương lai). “Giao nộp cho tao ba mươi ngàn đô tiền mặt vào cuối tuần sau và tao vĩnh viễn biến mất khỏi cuộc đời mày. Thề có Chúa chứng giám, tao cam kết với mày điều đó, Rosaline. Tiện đây, chúng ta có lẽ không cần phải bàn tới hệ quả của việc bỏ trốn trong đêm hay tố cáo với cảnh sát, hoặc nếu như tao không nhận được tiền đúng hạn đâu nhỉ? Vì… Ôi, tệ quá. Nghĩ đến viễn cảnh phải tự tay kết thúc cả hai thế hệ của một gia đình khiến đầu óc tao đau đớn như muốn nổ tung.”
Hai tay Rosaline nắm lấy cổ tay gã chột. Bà cảm thấy như có một luồng tĩnh điện bóp nghẹt trái tim mình khi phải làm hành động van nài ấy. “Tao xin mày đấy, Paul. Đừng làm chuyện này.”
“Đây không phải là một vụ tống tiền, Rosaline,” gã nói, gạt cái nắm tay của bà khỏi cổ tay mình. “Tôi chỉ đang lấy lại những gì vốn thuộc về mình mà thôi.”
“Nhưng ba mươi ngàn đô là một số tiền quá lớn, Paul. Tao không cách nào kiếm ra nó trong khoảng thời gian ngắn hạn như vậy được.”
“Đừng có dở trò lừa phỉnh ở đây,” gã xua tay, cụp mắt vào một lúc để không phải nhìn thấy đôi mắt ướt đáng thương hại của bà. “Joseph chắc chắn phải để lại một mớ tiền tích cóp cho cô và đứa nhỏ chứ.”
“Đúng là có tiền thật,” Rosaline nói, hoàn toàn chân thành. “Nhưng sau khi công việc làm ăn của các anh bị bại lộ, thì chính quyền liên bang đã lập tức phong tỏa tài khoản của Joseph rồi. Tiền cũng vì thế mà mất hết tất cả. Anh hẳn phải là người biết rõ điều đó hơn tôi chứ.”
Paul tần ngần ra mất một lúc. “Thế thì tệ cho cô em nhỉ.”
“Làm ơn đi, Paul. Hoàn cảnh hiện tại của tôi thê thảm không kém gì anh đâu,” bà tha thiết nói. “Dennis bị bệnh nặng. Tôi thậm chí còn đang phải vật lộn từng ngày để duy trì đơn thuốc của thằng bé. Chúng ta vốn không khá khẩm hơn gì nhau, đều bị dồn đến chân tường cả rồi.”
“Bệnh tình của thằng nhóc ra làm sao?” gã hỏi.
“Tôi thật lòng không thể giải thích cho anh nếu có muốn,” bà đáp, gần như tiếng thở dài.“Thằng bé nghe và thấy những thứ mà người khác không thể hiểu được.”
“Chà, thế thì tệ cho cô em quá nhỉ,” Paul lặp lại lời nói của mình, lần này kèm theo cả một cái tặc lưỡi.
Rosaline sững lại tại chỗ, nhận ra hàm ý độc địa phía sau lời nói của Paul khi gã lùa tay vào tóc bà. Gã hoàn toàn không hề để tâm tới hoàn cảnh của bà, chỉ là đang chơi đùa với cảm xúc của bà, dụ bà làm lộ ra vẻ yếu đuối trong khi lưới đã giăng sẵn, để rồi tóm lấy bà khi con cá nằm trong mẻ lưới ấy đã dần trở nên quá mức kiệt quệ sau một hồi giãy giụa.
“Giao nộp ba mươi ngàn đô vào cuối tuần sau,” gã hôn lên trán bà và nói, “hoặc là tôi sẽ buộc lòng phải thực hiện phần cam kết của mình. Vì tình yêu của Chúa, Rosaline. Đừng bắt tôi phải làm người xấu lần nữa. Nếu muốn trách cứ, thì cô hãy trách cứ Joseph vì tất cả mớ hỗn độn của cuộc đời chúng ta đều do sự ích kỷ của hắn ta tạo nên.”
(1) Ruger P89: Loại súng ngắn bán tự động, được sản xuất bởi Stum, Ruger & Co.
Bình luận
Chưa có bình luận