10



Dilma Alzie ngắm mình trước gương trong bộ váy màu xanh có chân váy dài đến đầu gối và ước giá như có thêm chiếc nơ buộc tóc thì hay biết mấy. Nếu vậy, cô có thể diễn lại một cảnh trong bộ phim hoạt hình “Alice ở Xứ sở thần tiên” mà cô yêu thích. Chui vào một cái lỗ và mất tăm mất tích trong một thế giới khác, cô đã từng có trải nghiệm tương tự như thế rồi.

Theo như nội dung từ những tin nhắn trao đổi trước đó, thì Dennis sẽ đến nhà cô vào lúc 7 giờ 30 tối. Cô là loại người coi trọng giờ giấc tới mức cực đoan; thậm chí đã tỉ mỉ miêu tả lại cho Dennis con đường nhanh và thuận tiện nhất để đến nhà cô là đi qua một lối tắt ở công viên Robert Gillham. Vì vậy hắn nên liệu hồn mà tới điểm hẹn đúng giờ và đừng bắt cô phải đợi dù chỉ một phút. Nếu không thì cô sẽ giết chết hắn. Haha, chỉ đùa thôi. Tất nhiên là cô vẫn muốn bản thân mình thuộc về nơi này, ít nhất là thêm một thời gian nữa.

Cô gần như thấy nhẹ cả người khi chuông cửa kêu ting-tong vào đúng 7 giờ 30. Ấn tượng đấy. Có khi nào Dennis đã tới được một lúc nhưng lại chọn cách đợi ngoài cửa và chỉ bấm chuông khi đến giờ hẹn không nhỉ? Nếu thế thì điên quá (giống như cô đây). Nhưng ấn tượng đấy. Cô ngắm lại mình trong gương một lần nữa rồi chạy xuống nhà, nhón chân trên những bậc thang cuối cùng vì không muốn hắn nhận ra cô đang phấn khích. Đúng là cậu ấy rồi, cô tự nhủ khi nhận ra bóng dáng gầy gò của người ở phía bên kia vạt kính và tấm rèm cửa không lẫn với ai khác được.

Cô mở cửa và Dennis xoay người lại. “Cậu đúng giờ như ong thợ ấy nhỉ.”

“Tôi đã cố gắng đến đúng giờ nhất có thể.” Dennis nhận nó như một lời khen và không muốn chỉnh lại Dilma chuyện ong thợ là tên gọi riêng để chỉ những nàng ong cái. “Chà, nhìn cậu kìa, lộng lẫy như một nàng công chúa.”

“Dù nàng không phải là một công chúa chính thức,” cô nhún chào kiểu quý tộc và nói tiếp, “nhưng xin chào ngài, ngài họa sĩ.”

Dennis bật cười vì không hiểu điều mà Dilma đang đề cập tới. “Cậu bảo ai không phải làmột nàng công chúa chính thức cơ?”

“Là Alice.”

“Alice?”

“Alice ở Xứ sở thần tiên. Cậu khờ quá,” cô nói và đứng qua một bên. “Giờ thì mau vào nhà đi nào, hỡi ngài họa sĩ khờ khạo.”

Dennis bước vào trong nhà, lập tức ngửi thấy mùi vỏ cam dễ chịu phảng phất trong không khí. Thứ mùi hương đó quả thật rất thơm, gần giống với mùi tinh dầu mà nó thỉnh thoảng vẫn ngửi thấy khi đi qua mấy quầy bán đồ lưu niệm trong khu trung tâm mua sắm. Nhưng không thấy bóng dáng của cái đèn xông tinh dầu ở đâu cả.

“Cậu có thể treo áo khoác trên móc. Xin cứ tự nhiên như ở nhà. Đừng ngại,” Dilma nói.

“Cảm ơn.”

Họ đi dọc hành lang. Có một phòng ngủ ở phía bên trái. Một cái bàn nhỏ đặt chậu hoa trên mặt và một cái hộp nhựa đựng đủ thứ chìa khóa bên cạnh nó. Kế đến là nhà vệ sinh và một căn phòng không rõ mục đích? Cầu thang dẫn lên tầng hai nằm cạnh phòng khách phía bên phải và nhà bếp thì ở tận trong cùng ngôi nhà. Hiện tại ngoài họ ra, thì có vẻ như không còn ai có mặt ở trong ngôi nhà này.

“Ba mẹ cậu vắng nhà à?” Dennis hỏi.

“Tớ chuyển về đây cùng bố,” cô nói. “Nhưng ông ấy hầu như lúc nào cũng bận rộn và hiếm khi có mặt ở nhà.”

“Ra vậy. Thế ông làm nghề gì?”

“Có Chúa mới biết được. Ông thường xuyên ra ngoài cùng với đồng sự của mình tới tối muộn mới về,” cô bảo. “Cậu vào phòng khách đợi chút nhé, tôi sẽ kiếm thứ gì cho tụi mình uống. Mà cậu muốn dùng gì? Nước có ga hay trà túi lọc?”

“Cho tôi xin một cốc nước máy.”

“Coi nào, chàng trai. Cậu đang làm tổn thương lòng hiếu khách của tớ đấy.”

“Vậy thì cho tôi xin một cốc trà túi lọc.”

Cô nháy mắt và nói. “Một sự lựa chọn khôn ngoan.”

Dennis ngồi xuống đi-văng khi tiếng chân của Dilma dần lùi sâu vào bên trong ngôi nhà. Sau khi lượn mắt một lượt xung quanh phòng khách, nó cảm thấy hơi hụt hẫng vì không tìm được bất kì bức ảnh nào của gia đình Alize trên giá và bàn đặt đồ trang trí, hoặc được đóng khung treo tường như nó đã kỳ vọng.

“Ôi chán thật. Hiện tại tôi chỉ còn trà gừng thôi. Cậu dùng tạm nhé hay muốn đổi qua loại nước có ga?”

“Trà gừng cũng được,” Dennis nói vọng ra ngoài.

Khoảng ba mươi giây sau tiếng nước đun sôi rít ra khỏi miệng cái ấm siêu tốc, Dilma quay trở lại phòng khách với hai chiếc cốc sứ in hình tuần lộc mũi đỏ Rudolph và đặt chúng xuống bàn trà.

“Cẩn thận kẻo bỏng nhé. Nhà tôi không có neosporin (1) đâu.”

Dennis cầm lên cốc trà gần phía mình hơn. “Cái cốc dễ thương ghê nhỉ.”

Dilma mỉm cười. Nụ cười cô ấm áp, y như những ngụm trà gừng đang làm ấm người Dennis. “Tôi thích mấy thứ ngớ ngẩn như thế.”

“Ông ấy có hay về nhà muộn không?”

“Ý cậu là cha tôi ấy hả?” Dilma hỏi, chơi đùa với túi trà lọc trong chiếc cốc sứ trên tay cô. “Khi này khi nọ, nhưng thường thì ông sẽ có mặt ở nhà vào lúc chín giờ tối. Mà sao cậu lạihỏi?”

“Thì cậu biết đấy. Con gái ở nhà một mình nguy hiểm lắm.”

Ánh mắt của Dilma thay đổi nhanh chóng. “Ồ, có phải ngài tính làm gì mờ ám với tôi không thế, thưa ngài họa sĩ? Xin cảnh báo trước với ngài là tôi đây không phải loại dễ chơi đâu nhé.”

Dennis gần như phát hoảng vì câu nói của Dilma. “Ôi, xin đừng hiểu lầm. Tôi không có ý gì khác ngoài quan tâm tới sự an toàn của cậu cả.”

“Nhìn mặt cậu kìa,” cô cười lớn. “Tôi giỡn chơi thôi mà. Cậu thật sự khờ quá.”

Trông Dilma cười có vẻ rất sảng khoái, điều đó giúp cho Dennis bớt căng thẳng hơn hẳn. “Cậu yêu thích những thứ ngớ ngẩn, còn tôi thì rất khờ khạo. Tôi đoán rằng đó là đặc điểm nhận dạng của hai chúng ta.”

Dilma đặt cốc trà gừng xuống bàn. Cô co hai chân lên ghế rồi dí chiếc mũi xinh xắn của cô sát mặt Dennis và thì thầm. “Này, tôi có thứ này rất muốn cho cậu xem và đảm bảo nó sẽ khiến cậu thích mê đấy. Cậu thấy sao?”

Thực tế thì trong vùng trí óc nhập nhòe của Dennis hoàn toàn không thể mường tưởng ra được “thứ sẽ khiến nó thích mê” mà cô nàng hứa hẹn là gì. Nhưng vị trí cơ thể của hai người hiện tại quả thật khiến nó cảm thấy ngại ngùng.

“N… n-nó là gì thế?”

Dilma nhìn sang căn phòng sau lưng cô bằng khóe mắt. “Bí mật,” cô nói. “Nó nằm trong căn phòng đằng kia.”

Dennis hơi nhổm người dậy và nhìn sang phía bên kia hành lang. “Nhưng đó là phòng của ai thế? Chúng ta có được phép vào đó không?”

“Nhiệt tình lên một chút đi nào, đồ khờ khạo.” Cô ngẩng mặt lên nhìn hắn. “Tôi đảm bảo nó sẽ khiến cậu thích mê cho mà xem.”

“Nhưng mà…”

Dilma quăng hai chân xuống ghế và đứng dậy. Cô ra hiệu cho Dennis theo sau và họ mau chóng thoát khỏi phòng khách rồi dừng lại ở trước cửa căn phòng phía bên kia hành lang. Cô đặt một tay lên núm cửa và kiểm tra thái độ của Dennis một lần cuối. Vẻ mặt cứ thộn ra như đánh mất tiền của hắn trông thật đần độn. Cô phải nín cười.

Dilma đẩy cửa và căn phòng rộng rãi hiện ra trước mắt hai người. Cuối cùng thì bí ẩn cũng được tiết lộ. Đó là văn phòng làm việc của cha cô nàng. Nhưng nói đúng hơn thì nó giống với một phòng trưng bày vì sự góp mặt của rất nhiều các tác phẩm nghệ thuật. Những bức tranh. Rất nhiều. Con số phải lên tới hàng chục bức.

“Ôi Chúa ơi!” Dennis thốt lên tới mức sửng sốt, hai mắt ngỡ ngàng di chuyển qua lại giữa những bức tranh. “Tôi đang nằm mơ có phải không, Dilma? Rằng điều này không hề có thực.”

Dilma hài lòng với cái nhìn hào hứng trên gương mặt của Dennis. “Cậu không nằm mơ đâu.”

“Cha cậu sở hữu toàn bộ số tranh này sao?” Dennis hỏi, đôi chân mải mê di chuyển và cặp mắt ngưỡng mộ không ngừng vuốt ve những bức họa.

“Vâng, dĩ nhiên,” cô nói. “Nếu không thì sao chúng lại ở trong phòng làm việc của cha tôi được chứ.”

“Cậu nói phải,” Dennis vò tóc, rồi nói tiếp, “lần này thì tôi đúng là kẻ ngớ ngẩn rồi.”

Chỉ cần lướt nhanh qua, Dennis cũng có thể kể tên trong số bộ sưu tập có bức “Vườn Lavender sương mờ” của Pollock (2); bức “Người đàn ông cưỡi ngựa” của Picasso (3); bức “Nhà ga” của Monet (4); và vô số những tên tuổi lớn khác trong làng hội họa.

Dennis dừng lại trước bức “Người đàn ông cưỡi ngựa” và xoa cằm trầm trồ. “Thật phi thường. Cậu biết không. Đây là bức tranh hoàn chỉnh đầu tiên mà Picasso cho ra đời. Năm ấy ông mới chỉ có chín tuổi thôi đấy.”

Dilma trao cho Dennis một cái nhìn kinh ngạc. “Chín tuổi thôi sao,” cô nói. “Tôi thậm chí còn chẳng thể ngủ nổi nếu thiếu ánh đèn khi ở tầm tuổi ông ấy.”

Dennis đùa giỡn. “Tôi cho rằng đó là lý do tại sao mà cả hai chúng ta đều không phải kiểu người kiệt xuất như Picasso.”

Cô cười lớn. “Ồ, hóa ra có người cũng biết cách nói đùa.”

“Cha cậu, ông ấy đang nắm giữ trong tay một bộ sưu tập vô giá đấy.”

“Tôi mừng là cậu thích nó,” cô nói. “Nhưng bức tranh mà tôi muốn cho cậu xem nhất nằm ở đằng kia cơ.”

Dennis nhìn theo hướng chỉ tay của Dilma. Bức tranh mà cô nàng nhắc tới được treo trên bức tường phía sau bàn làm việc của cha cô nàng, tại một vị trí còn có thể coi là trọng tâm của căn phòng.

Bức tranh vẽ trực diện một người đàn ông Do Thái trong chiếc áo thời Phục hưng màu xanh, cổ áo có thêu viền hoa văn tỉnh xảo với điểm nhấn là một viên ngọc được đặt chính giữa, đang dùng bàn tay phải để ra dấu phước lành, và cầm một quả cầu tinh thể trong suốt trong lòng bàn tay trái.

Thật không quá khó để Dennis nhận ra người đàn ông ấy chính là Chúa Jesus, và bức tranh kể trên là một trong số những bức tranh nổi tiếng nhất thế giới được vẽ bởi Leonardo da Vinci (5). Bức tranh có tên gọi “Đấng Cứu Thế” hay “Salvator Mundi”, là một trong số ít hơn hai mươi bức tranh hiếm hoi được ghi nhận dưới cái tên của đại danh họa, và chắc chắn là một vật thể dù có tiền cũng không hề dễ dàng để sở hữu.

Cảm xúc của Dennis khi lần đầu tiên chạm mắt lên bức “Đấng Cứu Thế” thật hỗn loạn. Thực tế thì chính cá nhân thằng nhóc lúc này cũng không thể đánh giá nổi cảm xúc của chính mình: hồi hộp, choáng ngợp, sửng sốt… tất cả đều hội tụ cùng lúc. Nhưng có nhiều điều về bức tranh trước mắt thực sự khiến cho Dennis phải bận lòng. Chúng giống như các vết mực đen trên trang giấy báo làm cho người đọc phải khó chịu. Và các vết mực ấy chính là những câu chuyện xung quanh về bức “Đấng Cứu Thế”.

Thứ nhất, bức “Đấng Cứu Thế” vốn được vẽ trên một tấm gỗ óc chó - loại chất liệu yêu thích của Leonardo da Vinci, còn bức tranh trước mắt Dennis lại được thể hiện trên nền vải canvas - một loại chất liệu phổ thông. Thứ hai, với vốn kiến thức hạn hẹp của mình thì Dennis được biết, lần cuối cùng bức “Đấng Cứu Thế” được nhìn thấy công khai là trong một buổi đấu giá đã diễn ra từ năm 2017, với số tiền trả giá cuối cùng lên đến bốn trăm năm mươi triệu đô la - một con số thậm chí dùng từ khổng lồ e rằng vẫn chưa đủ để mô tả hết tầm vóc to lớn của nó. Và cuối cùng, mặc dù rằng danh tính của người mua lại bức tranh chưa bao giờ được công bố, nhưng theo giới thạo tin và những lời đồn thổi, thì bức tranh nổi tiếng hiện đang thuộc sở hữu tư nhân của một nhân vật quyền lực trong giới hoàng gia Ả Rập Xê-Út. Suy ra, việc cha của Dilma sở hữu bản gốc của bức tranh này là điều hoàn toàn không thể.

Tranh chép! Dennis đưa ra kết luận ngay sau khi liên kết đống thông tin trong đầu lại thành một chuỗi. Và không chỉ riêng mình bức Đấng cứu thế, tất cả các bức họa phẩm có mặt trong căn phòng này có khả năng cao đều là tranh chép.

Tranh chép (hay còn gọi là tranh giả, tranh đạo, bởi việc sao chép lại bản chính) không hẳn xấu xa như nhiều người vẫn nghĩ. Bản thân bức “Đấng cứu thế” cũng có rất nhiều phiên bản khác nhau được chép lại, công nhận và trưng bày tại nhiều bảo tàng trên thế giới và điều này hoàn toàn hợp pháp. Tuy nhiên, đối với những người theo đuổi nghệ thuật và ưu ái sự nguyên bản thì ảnh hưởng bởi tranh chép đa phần là tiêu cực, và những người phải chịu tiêu cực ấy không phải ai khác ngoài những họa sĩ chân chính giống như Dennis. Theo quan điểm của riêng thằng nhóc, người bỏ tiền để sở hữu những bức tranh chép cũng đồng nghĩa với việc tự dung nạp vào cơ thể họ những độc hại từ những lon nước tăng lực rẻ tiền vậy, chứ không thể nhâm nhi thưởng thức trọn vẹn chúng như một loại vang Pháp thượng hạng.

“Cậu biết bức tranh này chứ?” Dilma tò mò hỏi.

“Tôi có,” Dennis đáp, từ từ thoát ra khỏi những suy nghĩ xoay quanh bức tranh. “Không một ai trong thế giới hội họa là không biết đến bức tranh này.”

Với vốn kiến thức hội họa nghèo nàn của mình, cô tiếp tục hỏi: “Nghe cậu nói thì nó có vẻ nổi tiếng nhỉ?”

“Tất nhiên rồi. Bức tranh rất rất nổi tiếng nữa là đằng khác,” thằng nhóc nói. “Người đàn ông trong tranh chính là Chúa Jesus.”

Dennis một lần nữa lướt mắt đánh giá lại mọi nét vẽ được thể hiện trong bức tranh. Mặc dù chỉ là tranh chép, nhưng phải công nhận những đường sơn được người trình bày thể hiện lại rất hoàn hảo, và chắc chắn trình độ của người này không thuộc hạng tay mơ xoàng xĩnh. Một cấp bậc trình độ mà ngay cả bản thân nó vẫn cần rất nhiều thời gian mới có thể đạt được.

“Chà, tôi vẫn luôn biết bức tranh này có gì thứ đó thật đặc biệt mỗi khi ngắm nhìn nó. Nhưng không ngờ là nó lại lớn lao đến thế.”

“Nó là một kiệt tác phi thường, cô gái ạ.”

“Phi thường cơ đấy,” Dilma phì cười, cảm thấy thích thú trước vẻ nghiêm túc của Dennis. “Được rồi. Thời gian thăm quan đến đây là kết thúc rồi, ngài họa sĩ. Giờ chúng ta mau rời khỏi đây thôi.”

Dennis vươn tay ra tính giữ lấy cổ tay Dilma, nhưng cô bất ngờ rụt tay lại và phản ứng. “Đừng chạm vào mình, Dennis.”

Vì quá bất ngờ với phản ứng của Dilma, nó ngẩn người ra, ấp úng. “Xin lỗi, tôi chỉ muốn hỏi liệu chúng ta có thể nán lại thêm một lát nữa được không? Vì tôi vẫn muốn ngắm nhìn chúng.”

Vẻ mặt của Dennis phần nào khiến cho Dilma cảm thấy áy náy, nhưng cô kiên quyết từ chối. “Không được đâu, Dennis. Chúng ta cần phải mau chóng rời khỏi đây, vì cha mình có thể về nhà bất chợt bất kì lúc nào. Nếu ông mà biết mình cho cậu vào phòng làm việc của ông mà chưa có sự cho phép, thì hai ta sẽ gặp rắc rối lớn đấy.”

“À, nếu là vì thế thì tôi hiểu.” Dennis nói, suy nghĩ giây lát và nảy ra một ý tưởng. “Gượm đã, tôi muốn chụp lại một số bức tranh. Vui lòng cho tôi xin một phút nhé. Chỉ một phút thôi.”

“Ôi không, Dennis. Tuyệt đối không!” Thang độ lo âu của Dilma nhảy cẫng lên và lập tức từ chối yêu cầu của Dennis như thể từ chối tiếp nhận một loại thông tin khủng khiếp mà không ai muốn đối mặt. “Cậu không thể chụp ảnh, quay phim hay làm bất kể điều gì tương tự thế trong ngôi nhà này.”

Dennis cảm thấy như vừa chọc đúng vào yếu huyệt sau gáy cô nàng.

“Có rất nhiều lý do, Dennis ạ,” cô chặn hắn lại và nói. Ống kính ghi hình của chiếc di động làm cô cảm thấy lo sợ. “Mình sẽ đưa cậu quay lại căn phòng này vào ngày mai, nếu chúng ta gặp nhau sớm hơn. Nhưng cậu phải hứa là sẽ không chụp ảnh ngôi nhà này; chụp ảnh những bức tranh hoặc chụp ảnh ngay chính mình đây. Cậu rõ rồi chứ?” Cô ái ngại nhìn hắn, trong khi hắn vẫn mòn mỏi chờ đợi một lời giải thích rõ ràng hơn từ phía cô.

“Vì nếu cậu làm thế, Dennis ạ, thì chúng mình sẽ không thể gặp lại nhau nữa.”

Neosporin: Một loại kem mỡ kháng sinh.

Jackson Pollock (1912 - 1956): Một họa sĩ người Mỹ, nổi tiếng với các tác phẩm vềchủ nghĩa trừu tượng sống động.

Pablo Picasso (1881 - 1973): Một họa sĩ và nhà điêu khắc người Tây Ban Nha, được biếtđến nhiều nhất với tư cách là người đồng sáng lập trường phái Lập Thể.

Claude Monet (1840 - 1926): Một họa sĩ người Pháp, được biết đến nhiều nhất với tưcách là một trong những người sáng lập trường phái Ấn tượng.

Leonardo da Vinci (1452 - 1519): Một thiên tài toàn năng người Ý, hay còn được coi làmột thiên tài toàn năng nhất lịch sử nhân loại.

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout