Dennis có một giấc ngủ ngắn tầm ba mươi phút vì cơ thể rơi vào tình trạng quá tải. Và thời điểm tiếng chuông điện thoại réo gọi thằng nhóc dậy, kẻ đột nhập ma quái đã biến mất tự lúc nào. Theo lẽ đương nhiên, chẳng ai biết được hắn đã đi đâu và hiện tại đang ở đâu - về với bóng tối trường tồn, hay hóa vào hư không. Ai biết đâu đấy. Nhưng hắn đã biến mất.
Bảy giờ sáng, Dennis lờ đờ bước xuống dưới nhà trong bộ dạng đói ngủ để chuẩn bị tới trường thì bắt gặp Rosaline đang chuẩn bị bữa sáng trong bếp. Bà vẫn bận trên người bộ đồ cũ từ tối hôm qua, nhưng với một tinh thần xoay chuyển, tốt hơn bội phần, dù vẻ mỏi mệt vẫn còn phảng phất đâu đó trên đôi mắt bà.
“Chào mẹ.”
Rosaline có vẻ như đã bị Dennis làm cho bất ngờ, lộ ra dáng vẻ giật mình khi bà nghe thấy tiếng gọi của nó. “Ôi, chào con yêu.” Bà nắn giọng nói cao vút lại thành một hành động gần giống với nụ cười, nhưng không hẳn là nụ cười. “Mau ngồi vào bàn ăn sáng đi nào.”
Dennis vui lòng làm theo lời của Rosaline, ngước lên nhìn bà với đôi mắt hỏi han. “Mẹ cảm thấy trong người sao rồi ạ?”
“Cảm ơn con,” giọng bà trở lại với tông khàn khàn đúng nghĩa của người vừa mới ốm dậy. “Nhờ có giấc ngủ sâu đêm qua, mẹ đã khá lên nhiều rồi.”
“Vậy chút nữa mẹ có tính đi làm không ạ?”
Bà gật đầu. “Nhà hàng cần sự trợ giúp từ mọi nguồn nhân lực. Con biết đấy, sắp đến Giáng Sinh rồi mà.”
“Vâng, con hiểu.”
“Có sữa tươi trong tủ lạnh đấy, con tự lấy nhé.”
“Cám ơn, nhưng không cần đâu ạ,” nó lắc đầu. “À, mẹ đoán xem con đã gặp ai hôm qua?”
Rosaline và chiếc chảo nóng trên tay bà cùng nhau quay ngoắt lại, trờn trợn nhìn Dennis. Câu hỏi của đứa con trai tưởng chừng đơn giản hóa ra lại có khả năng khiến bà phát sợ tới mức muốn hét lên. Mà cũng đúng thôi. Kể từ khi gặp lại Paul chột, thì nỗi sợ hãi lúc nào cũng bao quanh lấy cổ rồi bóp nghẹt cuống họng bà. Hỏi không sợ làm sao cho được.
“Nói nhanh mẹ nghe đi, con đã gặp ai?”
Vẻ mặt căng thẳng của Rosaline dần lây truyền sang Dennis, khiến nó không khỏi bối rối, phải cúi nhìn xuống lòng bà tay để thoát khỏi ánh mắt bà. Một cảm giác tội lỗi gợn lên. Bà đang căng thẳng vì cái gì vậy? “Đó là một cô gái. Tên cô ấy là Dilma Alize.”
Rosaline có vẻ như trút được cả tấn gánh nặng khủng khiếp khi không thấy Dennis nhắc đến tên một gã đàn ông nào, mà cụ thể ở đây là cái tên Paul chột. “Dilma Alize? Cái tên đẹp đấy mà họ thì hơi lạ nhỉ. Cô ấy là người nước ngoài à?”
Dennis nhìn bà, không rõ nên gật đầu hay lắc đầu. Cuối cùng, lắc đầu. “Thế cô ta là ai mà lại tìm gặp con?”
“Cô ấy là,” như sực nhớ ra một điều gì đó, nó giật nảy mình. “Khoan đã, thế nghĩa là mẹ chưa từng nghe đến tên cô gái này trước đây à?”
Rosaline lắc đầu và lắc đầu. “Theo như trí nhớ của mẹ thì không. Mà có chuyện gì quan trọng sao?”
Vậy tức là không có chuyện Dilma tìm gặp mẹ trước khi cô ta tìm gặp mình; càng không có khả năng mẹ vô tình tiết lộ chuyện mình sử dụng thuốc cho cô ta hay. “Dạ, không. Không có gì quan trọng đâu ạ,” nó nói.
Rosaline liếc nhìn đứa con trai thêm lần nữa trước khi quay trở lại với phần việc trên bếp còn dang dở, phân tích nhanh giọng nói nó trong suy nghĩ mình, đảm bảo rằng nó không giấu giếm bất cứ điều gì khác.
Bà bơm nước vào ấm đun và thay nó lên vị trí chiếc chảo nóng trên kiềng bếp. Sau đó dùng xẻng gỗ nấu ăn gạt món trứng omelette phô mai bào từ chảo chiên lên đĩa sứ, bưng nó ra bàn ăn và đặt xuống trước mặt Dennis. “Của con đây,” bà nhỏ nhẹ nói.
Dennis cám ơn Rosaline và mời bà dùng bữa cùng mình nhưng bà xua tay từ chối. Bà kéo ghế ngồi xuống cạnh nó sau khi thả cái chảo nóng vào bồn rửa. “Kể cho mẹ nghe thêm về cô gái này đi.”
Dennis xắn miếng trứng rồi bỏ vào miệng nhai ngon lành, quay mắt nhìn ra cửa sổ. Lúc này kể tất cả những gì mình biết về Dilma với mẹ liệu có phải ý hay không nhỉ, nó mơ màng nghĩ, quả là ngớ ngẩn. Mày đâu có biết nhiều về cô ta đến thế, ngoài những thông tin đángngờ tự chính miệng cô ta nói ra. Hãy để đến lúc mọi chuyện tỏ tường hơn rồi kể cho mẹ biết vẫn chưa muộn. “Cô ấy là một người bạn học cũ từ cấp tiểu học. Gia đình cô ấy mới chuyển về lại thành phố này.”
“Ra thế,” bà chống nắm tay lên gò má và nói tiếp, “nhưng trước đó thì gia đình cô bé ở đâu?”
Dennis im lặng phút chốc, nhận ra mình chưa từng hỏi Dilma về chuyện này, thầm tự trách mình lý nào lại có thể bỏ qua một chi tiết quan trọng đến thế? “Giá mà con biết được. Nhưng cô ấy có nhắc tới chuyện gia đình họ quay lại thành phố này từ một nơi rất lạnh.”
“Cô bé không đi vào chi tiết hơn sao?”
Nó lắc đầu.
Rosaline gãi cánh tay sồn sột vì một cảm giác bất an gợn lên thay vì cảm thấy ngứa. Paul có con gái không nhỉ? Bà tự hỏi. “Có lẽ cô bé có cả một câu chuyện dài phía sau và không muốn nói với con về điều đó. Cũng dễ hiểu thôi mà.”
Dennis quay sang bà, gật đầu. “Vâng, ai mà chẳng thế.”
“Mà hai đứa gặp lại nhau trong hoàn cảnh nào?”
“Cô ấy chủ động tiếp cận khi tình cờ bắt gặp con trên đường tới trường sáng hôm qua.”
Rosaline hồi tưởng lại bức ảnh chụp lén mà Paul chột dùng để uy hiếp bà trong con hẻm. Khi nhìn vào bức ảnh, bà lập tức có thể nhận ra cảnh quan con phố Charlotte mà bà đã qua lại tới hàng triệu lần, nhưng hoàn toàn không thấy bóng dáng của một cô gái trẻ tuổi nào đi bên cạnh Dennis. Bà dám chắc thế. Tuy nhiên, điều trùng hợp ở đây là thời điểm Paul chụp trộm bức ảnh và cô gái kia tiếp cận con trai bà đều xảy ra trong cùng một buổi sáng, có khi chỉ cách nhau vài phút đồng hồ. Vậy, hai chữ “tình cờ” mà thằng con bà vừa vô tư thốt ra có thật sự ngây thơ như thế không?
“Cô bé có nơi nào cần đến ư?” Bà hỏi.
“Đến trường ạ,” Dennis đáp. “Cô ấy xin gia đình nhập học Cliffton ngay sau khi trở lại thành phố.”
Lạy Chúa tôi! Chỉ cần nghĩ tới ý tưởng con gái của tên sát nhân đã giết hại chồng bà nay học chung trường với đứa con trai của bà đã đủ làm bà bấn loạn phát khiếp lên rồi. Rosaline thầm cầu nguyện cho mọi thứ không như bà đang nghĩ và đứng dậy theo tiếng rít của hơi nước, đi về phía quầy bếp, nôn nao xúc mấy thìa cà phê hoà tan từ lọ thủy tinh vào tách uống trà, rồi trút nước sôi từ ấm đun vào trong tách. Không. Paul không có con gái, theo như ký ức của bà thì là vậy. Bà cân nhắc hết kịch bản này sang kịch bản khác, nhưng nói túm lại thì chỉ có Chúa mới biết được bước ngoặt bất ngờ nào đã xảy ra trong suốt mười bốn năm bà không gặp hắn. Một đứa con gái, có thể lắm chứ.
“Ồ, thế nghĩa là hai đứa lại trở thành bạn cùng trường như xưa rồi nhỉ,” bà nói, cố làm ra vẻ bình tĩnh. “Vậy con thấy cô bé là người thế nào?”
Dennis suy nghĩ nhanh về Dilma, cố hình dung lại con người cô nàng. Cô ả là một người thế nào? Có lẽ ngoài bản tính quái đản thích che giấu, và luôn tỏ ra mập mờ về những câu chuyện xoay quanh mình, thì cô ta khá là tử tế và đáng mến. Mà có khi nào cô ả tỏ ra tử tế và đáng mến là bởi vì mày chưa biết hết bí mật của cô ta không nhỉ? Trước khi bộc lộ ý định muốn ăn thịt Hansel và Gretel (1), thì mụ Bánh Gừng (2) cũng là một bà lão tốt bụng đấy thây. “Cô ấy có vẻ tốt bụng,” nó đáp.
“Thế hai đứa nói về chuyện gì sau khi gặp lại?”
“Thú thật là chẳng có gì nhiều để nói. Một vài lời chào hỏi vặt vãnh mà bình thường người ta vẫn hay làm thế, mẹ biết đấy,” nó nhún vai. “Nhưng cô ta dường như nhớ nhiều thứ về con hơn là con nhớ về cô ấy.”
“Mà cụ thể ở đây là gì?” Nói xong, sắc mặt Rosaline trầm hẳn xuống. Bà cảm thấy mình đã nói quá nhanh, đã quá nóng vội mà không có lý do gì cụ thể, và hối hận khi để ý thấy Dennis bất giác liếc mắt nhìn mình.
“Cô ta nhớ rằng con thích vẽ và gọi con là một con mọt vẽ.”
“Nếu chỉ có vậy thì đâu thể cho là cô bé nhớ nhiều hơn con được,” bà nói, vẻ mặt không thay đổi nhưng rõ ràng là không thỏa mãn. Cả hai người đều có thể nhận ra sự hiển nhiên đó.
Nó nhíu mày lại. “Vâng, chắc là thế.”
Rosaline trở về ghế ngồi. Khói trắng nghi ngút bốc ra từ miệng cái tách trên tay bà. Hương thơm cà phê gần giống với mùi của đất, nhưng gắt hơn. “Trông cô bé thế nào? Xinh xắn không?”
Dennis quay sang nhìn Rosaline và thoáng thấy hình ảnh Dilma chơi đùa với túi trà lọc khi trông bà dùng chiếc thìa hòa tan bột cà phê dưới đáy tách. Tùy theo từng góc độ mà cả hai có những nét khá tương đồng trên gương mặt: đều mềm mại và nhỏ nhắn. Tuy nhiên, điểm khác biệt rõ rệt nhất ở đây là trái với vẻ nhựa sống căng tràn của Dilma, nét tươi trẻ trên gương mặt Rosaline đã dần bị thay thế bởi những nếp nhăn hằn sâu trên má và hai khóe mắt - cái phần thưởng tàn khốc của một quá trình dài nếm trải những trở ngại và thách thức của cuộc sống quả thật chẳng thú vị gì cho cam.
“Nói hơi hơi xem chừng là đúng nhất,” nó nói và nghĩ một lát. “Con không chú ý nhiều tới vẻ ngoài của cô ấy đến thế.”
Xoáy chất lỏng màu nâu cà phê quay chậm dần trong lòng tách, Rosaline vỗ nhẹ chiếc thìa lên miệng tách vài lần rồi đặt nó xuống đĩa lót, mỉm cười. Nụ cười giúp bà trông trẻ ra vài tuổi. “Thế hiện tại gia đình Dilma ở đâu, cô bé có cho con biết không?”
“Dạ có,” nó đáp, mắt vô thức hướng ra cửa. “Nhà họ ở bên kia khu Rockhill Terrace, chỉ cách công viên Gillham một quãng đường. Con mới qua đó hồi tối qua.”
“Cô bé mời con tới nhà chơi rồi ư?” Rosaline lớn tiếng hỏi như rơi vào một cơn sốc.
“Vâng, đúng thế.”
Bà do dự trước khi hỏi tiếp. “Vậy con gặp phụ huynh của cô bé rồi chứ?”
“Cô ấy sống với cha,” Dennis trả lời, song không quá để ý tới vẻ do dự của bà. “Nhưng con chưa có cơ hội gặp ông ấy.”
Rosaline tính mở miệng nói tiếp điều gì đó rồi lại thôi. Bà nhấp ngụm cà phê và liếc nhìn đồng hồ. “Mẹ mừng vì hai đứa có vẻ làm thân với nhau nhanh hơn là mẹ tưởng,” bà nói và đứng dậy, hôn lên trán nó. “Được rồi, giờ thì mẹ cần phải đi làm. Nhưng hãy mời cô bé đến nhà mình chơi vào một buổi nào đó nhé, chỉ cần cho mẹ biết trước để chuẩn bị. Hiếu khách là điều chúng ta nên làm. Mẹ muốn cô bé cảm thấy được chào đón.”
***
Kết thúc bữa sáng, Dennis dọn dẹp qua gian bếp rồi rời khỏi nhà. Trong cái ẩm ướt sáng sớm, con phố Charlotte gần như phản chiếu lại hoàn hảo gam màu u ám nặng nề của bầu trời. Mây xám tầng tầng lớp lớp đồng nhất vây hãm quả cầu lửa, nhốt ánh sáng vĩ đại vào trong khối nhà tù vô hình dạng của nó như một tù nhân.
Điều kì quặc là Dennis hi vọng rằng buổi sáng hôm qua sẽ lặp lại. Với Dilma ấy, tất nhiên rồi. Trên đường đi, nó kiểm tra đường phố đằng sau mình những hai ba lần, lòng khấp khởi mong đợi. Vẫn là lối đi cũ, vẫn cái lạnh tê cóng mà Dilma nói rằng linh hồn cô thuộc về nó, nhưng cô đã không xuất hiện.
Sau khoảng mười phút đi bộ, từ khóe mắt, Dennis thoáng nhận ra những hình bóng xấu xí và cố kháng cự để không ngoái đầu nhìn, nhưng chỉ thêm được một đoạn. Chiếc FordMustang màu xanh biển chuyển bánh tấp vào lề đường, một bên cửa kính thong thả hạ xuống. Bryan Richmond mặc chiếc áo khoác denim cách điệu nhoài người khỏi cửa kính, chìa gương mặt trắng nhởn cùng biểu hiện hớn hở của hắn như thể đang chào mua một món hàng.
“Này, thằng ẻo lả,” hắn vỗ nhẹ vào cửa xe rồi bảo. “Trời sắp đổ mưa rồi đấy. Mau lên xe đi!”
Một khoảng ngập ngừng chóng vánh, Dennis nói: “Để chúng mày sát hại tao rồi vứt vào một xó nào đấy cho tiện à?”
“Lần này thì không.” Richmond nhe răng cười. “Mày không cần nghĩ ngợi gì nhiều ngoài lòng tốt của tao. Tao hứa là sẽ không động tới một sợi lông của mày.”
Trông điệu bộ kiểu ngoắc tay thề nhé của Richmond khiến Dennis cảm thấy buồn nôn. “Mày có thể không. Thế còn hai thằng kia thì sao?”
Richmond tặc lưỡi, nhướn cả hai bên mày. “Hai đứa nó cũng sẽ không động vào một sợi lông của mày, thế đã được chưa?” Hắn ngoái đầu xuống hàng ghế sau, bắt Simon Keith và James Olsen phải thề và bọn chúng làm theo. Hành động miễn cưỡng vừa rồi khiến cả hai đứa tay sai của Richmond trông ngu hết sức, vô hồn hệt như những con rối bị giật dây. “Bọn tao có thể là mấy thằng khốn, nhưng tuyệt đối không bao giờ nuốt lời.”
Dennis nhìn vu vơ lên đỉnh cột ống khói căn nhà kiểu kiến trúc thuộc địa bên kia đường, chạy vội những dòng suy nghĩ. Nhưng thời gian và bản tính thiếu kiên nhẫn của Bryan Richmond không cho phép nó trì hoãn lâu hơn được nữa; và có lẽ đâu đó trong một phần linh tính nó cũng đang mách bảo rằng, làm theo lời thằng khốn ấy là một quyết định khôn ngoan hơn cả. Có lẽ vậy.
Dennis giữ nguyên bộ mặt trung lập, bước lại gần chiếc Mustang rồi mở cửa. Thoáng thấy Richmond nhoẻn miệng cười, nó tự hỏi không hiểu hắn đang nghĩ gì. Phải chăng là hắn cười nhạo vì nó vừa mắc phải một sai lầm to lớn khi đã quá dễ dãi tin vào câu hứa suông của hắn. Những thằng khốn đâu nhất thiết cần phải có lòng tự trọng.
Bryan Richmond xoay vô lăng hai vòng và chiếc xe ô tô bắt đầu lăn bánh. Sau khi chạy được một quãng, những hạt mưa lăn tăn trên tấm kính chắn gió dần chuyển thành một thác nước, cản trở tầm nhìn phía người lái, vì thế các cần gạt nước mau chóng được kích hoạt. Cả bốn người trên xe đều im lặng một cách đáng kinh ngạc. Dennis liếc mắt nhìn lên gương chiếu hậu, quan sát ba người còn lại trong cabin xe. Bryan Richmond hầu như không biểu lộ chút cảm xúc nào phía sau tay lái - một gương mặt trơ lì được nhào nặn nên từ nhiều đợt tập luyện. Không gian hàng ghế sau dường như quá chật chội cho cả Simone Keith và James Olsen, nhưng trông qua thì có vẻ tệ hơn cả đối với Keith. Hắn không tài nào che giấu nổi bộ mặt cáu bẳn của mình ngay cả khi đang phiêu theo bản nhạc sôi động trên sóng radio. Riêng Olsen thì vẫn là cái kiểu xa cách với bộ đôi còn lại như thế, cố làm cho mình trở nên vô hình, thậm chí không tồn tại trong mắt người khác thì càng tốt.
Ồ, nó kia rồi, cái dấu ấn hổ thẹn, Dennis mỉm cười trong lòng khi nhìn thấy vết tím bầm trên gò má Keith, không dám cười lớn thành tiếng vì sợ sẽ gây họa.
Richmond mắt mở lớn hoang dại đoạn đánh lái vào một khúc quành, cất tiếng. “Tao có lời đề nghị hay ho dành cho mày đấy, Dennis. Mày không thể từ chối nổi đâu.”
Dennis quay sang nhìn hắn, cảm thấy mí mắt mình giật giật. “Là gì thế?”
“Hãy cảm thấy biết ơn,” Richmond không nói gì nhiều hơn thế. Sau đó, hắn thò tay vào túi trong áo khoác rồi lôi ra một tập ảnh và thảy chúng lên đùi Dennis.
Một vài tấm ảnh trượt tự do khỏi đùi Dennis và rơi xuống thảm sàn xe. Nó cúi nhặt những tấm ảnh, lóng ngóng sắp xếp chúng lại thành tệp như trước, và sửng sốt. “Cái gì đây? Việc này có phạm pháp không thế?”
“Ô hô, phạm pháp cái chó gì,” Richmond nhếch mép cười nhạt thếch. “Chỉ là vài tấm ảnh chụp lũ học sinh ở trường thôi mà. Bộ mày chưa thấy ảnh kỷ yếu bao giờ à?”
“Đây là rình rập, chứ không phải ảnh chụp kỷ yếu bình thường.” Dennis giơ lên một tấm ảnh ngẫu nhiên làm dẫn chứng. “Đừng cố đánh tráo khái niệm.”
“Xì, kiểu quái nào mà chẳng như nhau.”
Dennis không muốn tranh cãi thêm với loại cứng đầu cứng cổ như Richmond, vì biết có cố mấy cũng vô ích, mặc dù cũng cảm thấy một nguy cơ tiềm ẩn nào đó đã ở sẵn đó rồi. “Chính xác thì mấy tấm ảnh này thì liên quan gì tới tao?” Nó hỏi.
“Liên quan nhiều lắm chứ,” Richmond quay sang nhìn và đáp. “Chúng là điểm mấu chốt vì sao chúng ta có cuộc nói chuyện này: để tìm ra một vật thế mạng mới.”
Dennis lướt nhanh qua những tấm ảnh và không mấy ngạc nhiên khi nhìn thấy ảnh của chính mình, nhưng lại hết sức ngạc nhiên khi tìm thấy có cả ảnh của James Olsen lẫn trong đó, đầu nhanh chóng nảy nên một suy nghĩ phức tạp: nó sắp bị đưa vào một trò bắt nạt bệnh hoạn mới mẻ nào đấy của thằng khốn Bryan Richmond chăng? Một cuộc đấu tay đôi chẳng hạn.
“Tìm ra vật thế mạng mới? Cho cái quái gì mới được cơ chứ?”
“Chính thế đấy.” Richmond ngưng ba hoa một lát, thầm lặng quan sát nét mặt của Dennis trong lúc chờ đợi đối phương tiêu hóa xong ý tưởng của hắn rồi mới trả lời. “Cho cái gì thì còn tùy thuộc vào quyết định của mày. Một trong số chúng có thể là vật thế mạng cho mày đấy, hiểu không?”
Dennis tất nhiên không hiểu. Nó tạm thời bỏ qua những lời lẽ điên khùng của Richmond bằng cách làm mê hoặc lỗ tai mình với lời ca đầy nội lực của ca khúc “Bohemian Rhapsody”; một tuyệt tác của ban nhạc Queen (3), đang được phát trên radio.
“Mama,
Just killed a man.
Put a gun against his head.
Pulled my trigger, now he’s dead…”
Chiếc xe rẽ trái tại một giao lộ giữa đường Troost và đại lộ Armour. Dennis liếc nhìn phố xá và ngầm hiểu ra ngay Richmond đang cố kéo dài lộ trình đến trường. Cầm trên tay tấm ảnh của mình và James Olsen; dựa trên sự gợi ý của tên cầm đầu về một “vật thế mạng” trước đó. Phần logic trong tâm trí thằng nhóc dần lắp ráp chúng lại thành một khối toàn vẹn, một cái nhìn thông suốt dẫn tới vấn đề chính mà cuộc nói chuyện kì lạ này muốn hướng đến, dù vẫn chưa thật sự chắc chắn cho lắm. Trong tình huống này, cứ thử đánh liều một phen xem sao.
“Khỏi vòng vo đi, Richmond. Để tao làm mọi thứ dễ dàng hơn nhé.” Dennis quay sang ghế người lái, chuyền hai tấm ảnh từ tay này sang tay kia. “Tụi mày từng bắt nạt James theo cách đối xử với tao ở thời điểm hiện tại, sau đó cho nó cơ hội nhập bọn vì nhận thấy một điều gì đó ở nó. Và giờ thì tụi mày đang cố gắng lặp lại lịch sử với tao, đúng thế không?”
Richmond quay sang nhìn Dennis vẻ thích thú, rồi nói ngoái lại hàng ghế sau. “Tao đã bảo là thằng này được lắm mà.” Cả Keith lẫn Olsen đều im lặng và tỏ ra không mấy hứng thú với câu nói của hắn, nhưng hắn không có lý do gì để nổi cáu với chúng.
“Giờ tao chỉ cần chọn ra một tấm ảnh để làm vật thế mạng cho mình là sẽ thoát khỏi mấy trò bắt nạt của tụi mày, nói thế đúng chứ? Mặc dù điều đó đồng nghĩa với việc tao phải nhập bọn với tụi mày, chung tay hành hạ kẻ vô tội đáng thương kia suốt quãng đời học sinh còn lại của hắn, giống như cái cách mà thằng Olsen đã chọn ảnh của tao hai năm trước.” Dennis, dù không trực tiếp, nhưng có thể trông thấy cái nhìn kiểu giật mình và cảnh chuyển biến sắc mặt của James Olsen khi nghe thấy nó làm rõ trắng đen mọi thứ.
“Không cần phải tỏ ra hằn học thế, Dennis. Chúng ta đều là nạn nhân của một thứ gì đó,” Richmond nói, giọng điệu ra vẻ rất chí lý. “Giờ thì thằng Olsen đã là bạn của tao rồi, và mày đang đứng trước một hội lớn để được như nó. Vậy chúng ta không cần phải ném sự thù ghét vào nhau làm gì.”
“Ồ, tao lại nghĩ khác đấy, Richmond.” Dennis giơ tấm ảnh chụp James lên trước mặt mình. “Theo như nguyên tắc thì ảnh của thằng James vẫn nằm trong đây mà. Tao hoàn toàn có thể lựa chọn đẩy nó ra khỏi nhóm và đưa nó về lại những ngày tháng địa ngục, phải chứ hả? Những thằng khốn đâu nhất thiết cần phải có lòng tự trọng, nhưng nguyên tắc là nguyên tắc.”
James Olsen chợt cảm thấy ghê sợ với ý tưởng của Dennis, lập tức cau có và sửng cồ lên. “Thằng khốn kia, mày đang nói nhảm cái chó gì thế hả?”
“Im miệng lại, Olsen!” Richmond ra lệnh, cười nhếch mép. “Mày trở nên thú vị hơn rồi đấy, Dennis. Đúng thế, tao thừa nhận: nguyên tắc là nguyên tắc. Cứ chọn ảnh của thằng Olsen đi, nếu đó là điều mà mày muốn. Đẩy nó ra khỏi nhóm và gia nhập với bọn tao. Một sự trả thù ngọt ngào, phải không?”
Olsen gần như phát khùng ở hàng ghế sau. “Richmond, mày không thật sự nghiêm túc cân nhắc chuyện này đấy chứ?”
Richmond dằn tay lên bánh lái và ngoái cổ xuống đe Olsen. “Chẳng phải tao bảo mày im miệng lại rồi cơ mà?” Rồi hắn quay trở lại với Dennis khi thấy Olsen co rúm người lại trên ghế như một con cún mới đẻ. “Thế mày nghĩ sao, Dennis? Vẫn muốn chọn thằng Olsen chứ?”
“Nghĩ sao ấy hả?” Nghe James Olsen nói một từ gì đó khẽ đến nỗi không ai luận ra nổi, Dennis quay xuống nhìn hắn rồi thổi phù ra một hơi. “Nói thật thì lũ chúng mày thật đáng thương. Chúng ta đều sắp mười tám và tao đã cho rằng chúng ta trưởng thành hơn thế này. Nhưng hóa ra lại không, tuổi tác không phải là vấn đề. Bằng chứng là ngần này tuổi rồi mà tụi mày vẫn có kiểu suy nghĩ và lối hành xử chẳng đâu vào đâu, như một lũ trẻ con đầu toàn cứt ấy.”
Richmond bất ngờ đạp thắng xe mà không thông báo, làm cả bọn ngã chúi đầu về phía trước. Chiếc xe con chạy ngay phía sau xuýt chút nữa đã húc vào đít chiếc Mustang. Tay tài xế nọ vọt lên đầu chiếc Mustang và tuôn ra một tràng lời chửi rủa bực tức. Richmond nóng nảy hạ kính xe, đấu võ miệng với gã tài xế ấy trong gần nửa phút, không màng tới việc nước mưa cứ thế hắt xối xả lên người hắn. Rồi khi mọi việc êm xuôi, hắn trừng trừng quay sang Dennis, toàn bộ cơ mặt giãn ra, hai mắt đỏ ngầu vì dính mưa. “Đừng để tao phải đánh giá lại mày, Dennis ạ. Để mồm mép đi chơi xa như thế không có lợi lộc gì mà chỉ hại chết mày nhanh hơn thôi. Hiểu không?”
Dennis giữ nguyên bộ mặt rắn như đá, vươn người qua bên ghế của Richmond rồi kéo cửa kính lên để ngăn nước mưa tiếp tục bắn sang chỗ mình ngồi, sau đó chậm rãi trả lại tệp ảnh vào túi áo khoác trong của hắn. “Đây rõ ràng là một chuyện lớn, và tao cần thêm thời gian để đưa ra quyết định. Mày cảm thấy chờ được chứ?”
Trông rõ ràng là Bryan Richmond đang thật sự cáu tiết, nhưng hắn bị ấn tượng lớn bởi hành động vừa rồi của Dennis. Nó làm cho hắn sởn gai ốc. Thằng chó đẻ này lấy đâu ra can đảm để làm mấy việc thế này nhỉ? Hắn bật cười. “Tốt thôi. Tao chấp thuận cho mày thêm thời gian suy nghĩ, và thời hạn là một tuần. Nhưng đừng cố câu giờ, Dennis. Bởi vì tao không phải là một kẻ biết đến hai chữ nhẫn nại.”
“Rõ là thế rồi.”
Chiếc xe bốn bánh tiến vào bãi đậu trường trung học Cliffton. Dennis tìm cách tẩu thoát khỏi cabin xe vội vã như cách cơn mưa ngày một chuyển biến nặng hạt. Mưa lớn hạn chế tầm nhìn khiến con đường dẫn tới lối vào trở nên nhạt nhòa, dài như vô tận. Lưu lượng nước từ trời trút xuống giữa thời khắc mỗi bước chân đủ nhiều để lấp đầy cả vài bể chứa lớn.
May mắn thay, chiếc áo Sherpa mà Dennis khoác ngoài cùng có chất liệu chính từ ni-lông đã ngăn cản phần lớn nước mưa xâm nhập giúp nó không hoàn toàn rơi vào cảnh ướt nhẹp. Suốt lúc nán dưới mái hiên trước lối ra vào để rũ bỏ những giọt mưa cứng đầu vẫn bám dính trên áo quần, Dennis vô thức chạy mắt dọc con đường vừa đi qua và nghiền ngẫm lại lời đề nghị của Bryan Richmond.
Theo lý thuyết, nó có thể loại bỏ hoàn toàn những rắc rối đã tồn tại gần hai năm nay giữa đôi bên, thậm chí còn có cơ hội trả thù Olsen - kẻ dù vô tình hay cố ý, đã gián tiếp đẩy nó vào tình cảnh khốn khổ khốn nạn suốt bấy lâu nay. Nhưng thế cũng đồng nghĩa với việc phải bán mình cho quỷ dữ.
Không cho phép ý tưởng cực đoan ấy ảnh hưởng tới mình quá nhiều, Dennis nhanh chóng bước vào bên trong tòa nhà. Trước các đèn trần in bóng sáng lập lờ giữa những vùng nước, các mùi ngai ngái giống mùi ẩm mốc, gây kích ứng chiếc mũi nhạy cảm bởi áo quần ngấm mưa; và các tiếng kin kít của đế giày băm xuống sàn nhà, làm nó thoáng nhớ lại kẻ đột nhập ma quái đã gặp gỡ mình hồi đêm qua.
Phòng học số bốn trên tầng hai khu B tòa nhà chính, lớp Văn học chủ nhiệm bởi thầy Schneiders. Dennis cúi mặt bước giữa lối đi các bàn học và cố né tránh những ánh mắt săm soi, di chuyển đến chỗ ngồi cố định của mình gần cuối góc lớp. Năm phút sau tiếng chuông thông báo, Schneisders dẫn theo một cậu thanh niên bước vào phòng học và bắt đầu bằng những lời giới thiệu. Một cậu học sinh mới, tên gọi Michael Silverman. Dennis có nghe thấy nhưng không ngước mặt nhìn vì không để tâm lắm. Sau cùng, cậu học sinh mới đến ấy được Schneiders sắp xếp chỗ ngồi bàn bên cạnh với nó.
Schneiders dùng chiếc bút dạ viết lên bảng trắng mấy chữ và bắt đầu quá trình thuyết giảng của ông. Dennis khẽ đánh hơi thấy mùi hăng hắc của chất hóa học chứa trong các nét bút khi khom người nhặt lên cái ba lô được đặt cạnh chân bàn cho ráo nước. Nhưng không đỡ là bao, cái ba lô hoàn toàn bị ướt nhẹp dưới sức mạnh của trận mưa lớn. Điều đáng nói là so với năm phút trước đây, cái ba lô bỗng trở nên nặng tới mức không tưởng và phình to ra gấp ba lần kích cỡ thường bình của nó, trông chẳng khác nào một cái thùng đựng nước.
Dennis phải dùng hết sức để kéo cái ba lô lên và khó khăn lắm mới đặt được nó lên trên mặt bàn học, thiếu chút nữa đã bật ngửa khỏi ghế ngồi. Phía trên miệng ba lô, các răng khóa dường như được phủ lên một hợp chất gì đó dinh dính màu đỏ đậm, có mùi tanh tưởi khủng khiếp. Có một cái gì đó mắc kẹt bên trong ba lô khiến nó không thể mở ra một cách bình thường. Dennis nghiến răng kéo cái móc khóa. Chuỗi răng khóa ban đầu hầu như không nhúc nhích nổi, nhưng rồi cứ mỗi lần miệng cái ba lô được nới lỏng ra thêm một đoạn, lại có các luồng khí bức bối thi nhau thoát ra khỏi miệng cái ba lô và vây quanh, tấn công thằng nhóc. Những luồng khí ấy, chúng lướt trên bề mặt da thịt, gây cảm giác bỏng rát và đồng thời lạnh buốt. Chúng bay lên cao và lượn xuống như một thông điệp đầy quỷ dị, trước khi biến thành một hình hài của một đám mây xám và tan vào thinh không không lâu sau đó. Dennis dáo dác nhìn quanh, khịt mũi ngửi và ngạc nhiên nhận ra thứ mùi mà những luồng khí quỷ dị kia để lại có mùi giống với mùi của rễ cây mục rữa và mùi của đất, cùng với một thứ mùi gì đó khang khác nữa, thậm chí còn nặng hơn tất cả.
Nhưng điều đó dường như không thể làm Dennis chùn tay. Nó chấp nhận vật lộn với cảm giác buồn nôn, huy động toàn bộ các thớ cơ bắp, bất chấp hậu quả để xé toạc miệng cái ba lô theo đúng nghĩa đen. Rồi khi có cơ hội thoát ra, thứ mùi nặng khủng khiếp từ trong cái ba lô ngồn ngộn bay lên và phả thẳng vào mặt nó như một cú tát, làm tầm nhìn phía trước nó nhòe dần đi, đem đếm khung cảnh cuộc gặp gỡ kì dị nơi phòng ngủ đêm qua sống dậy.
***
Trong ánh trăng tàn vẫn còn nấn ná bên thềm cửa sổ, cái bóng đen vô hình dạng của kẻ đột nhập ma quái giờ hiện ra trước mắt Dennis là một chàng trai trẻ, tuổi đời có lẽ mới ngoài hai mươi. Anh ta có mái tóc màu vàng cát thiếu sức sống và làn da trắng phát bệnh, lõa thể trong tư thế ngồi giấu đầu sau hai cánh tay gầy gò thiếu sức sống. Bởi vì một lý do nào đó mà anh ta cứ khóc rấm rứt mãi, nhưng Dennis không tìm đâu ra dũng khí để mở miệng hỏi lý do vì sao anh ta lại khóc như thế, và những vết thương tồi tệ đã chuyển thành màu xám tro trên cơ thể anh ta từ đâu mà có. Ai đã xâm hại anh?
Dennis gạt bỏ những suy nghĩ ra khỏi đầu, định chạm vào chàng thanh niên để thu hút sự chú ý của anh ta, nhưng nhanh chóng phải thu tay về vì chợt nhận thấy chàng thanh niên kia vừa động đậy. Tiếng khóc rấm rứt trong cổ họng anh ta vẫn vang lên thêm một chặp rồi mới tắt. Rất nhanh sau đó, anh ta lướt các đầu ngón tay nứt nẻ lên mái tóc xơ xác, luồn chúng ra phía sau gáy và rướn cổ dậy, hít một hơi đầy làm khuôn ngực gầy trơ xương của anh ta phổng phao lên đôi chút, rồi lại nhanh chóng xẹp xuống khi hơi thở được giải phóng khỏi hai lá phổi. Qua đôi mắt ướt nhòe, trông anh ta thật mệt mỏi và bất an - vẻ ngoài của một nạn nhân bị giày vò bởi những cơn ác mộng suốt một thời gian dài, nếu không muốn nói là mãi mãi. Và điều đó nhắc nhở Dennis nhớ tới mình.
Chàng thanh niên ấy có một khuôn mặt ưa nhìn. Nhưng ngay lúc này đây, những vết bầm trên môi, các mảng mề đay nổi mụn nước có mùi thối rữa trên má và các quầng tối dưới mắt đã phá huỷ gần hết các nét đẹp của anh ta; và da dẻ của anh ta có màu xám của sa thạch. Bất thình lình, anh ta hướng đôi mắt mờ đục đã đóng màng nhìn chằm chằm Dennis, rồi chộp lấy hai cẳng tay thằng nhóc và hét lên.
“Không kịp nữa rồi, Dennis. Không kịp đi xa khỏi nơi này nữa rồi. Hắn lại nhìn thấy cậu rồi. CHẾT RỒI! HẮN LẠI NHÌN THẤY CẬU ĐANG NGỦ TRÊN NGÔI MỘ YÊU THÍCH CỦA HẮN TA MẤT RỒI.”
Hansel và Gretel: Hai nhân vật trong truyện cổ tích cùng tên của anh em nhà Grimm
Mụ Bánh Gừng: Nhân vật phản diện chính trong truyện cổ tích Hansel và Gretel.
Queen: Một ban nhạc rock huyền thoại người Anh, được thành lập vào năm 1970.
Bình luận
Chưa có bình luận