13



“Dennis, nghe gì chứ? Cậu đang ngủ gật trong giờ học của tôi đấy à?” Schneiders lặp lại câu hỏi vài lần, và lần nào giọng nói vốn dĩ ôn hòa của ông cũng thêm vào một chút hằn học, vì không chịu nổi sự thiếu ý thức của tay học trò vô kỷ luật.

Phải đến tiếng gọi thứ tư của Schneiders, Dennis mới bừng tỉnh hẳn. Nó mở to hai mắt thao láo nhìn Schneiders lúc người đàn ông đứng bật dậy khỏi bàn giáo viên, như thể vừa chứng kiến một vụ tai nạn thảm khốc. “Dạ thưa, không.”

“Cậu đang làm gián đoạn buổi học của mọi người đấy, cậu Dennis,” Schneiders nhìn bộ dạng ngấm mưa của Dennis lòng sinh ra lo lắng. “Trông cậu có vẻ kiệt sức, không mệt mỏi ở đâu chứ?”

Dennis đặt tay lên bàn, thở không đầy hơi. “E-em… cũng không chắc nữa,” nó lí nhí trả lời. “Hãy thứ lỗi cho em vì đã làm gián đoạn buổi học, thầy Schneiders. Nhưng em không ngủ gật.”

“Để thử xem,” Schneiders nói, cảm thấy hơi khó chịu vì Dennis không nhận tội. Ông đứng bắt chéo hai tay. “Thế cậu có thể cho mọi người biết là tôi đang giảng dạy về tác phẩm nào không?”

Dennis nuốt nước bọt và nhìn người đàn ông với ánh mắt tuyệt vọng. Tại thời điểm mà nó đã sẵn sàng từ bỏ hi vọng vào các phỏng đoán mang tính chất cầu may và chuẩn bị trao cho Schneiders những cái lắc đầu bế tắc. Bất ngờ thay, nó lại nhận được sự giúp đỡ từ tay học sinh mới.

“Giết con chim nhại,” giọng của cậu ta khẽ cất lên ở bàn học bên cạnh.

“Giết con chim nhại, viết bởi Harper Lee, thưa thầy Schneiders?!” Dennis trả lời với vẻ mặt không mấy tự tin.

“Là cậu đang trả lời hay đang hỏi lại tôi vậy, Dennis?”

Dennis chà ngón tay lên cánh mũi, lén lút quan sát nét mặt người đàn ông và im lặng.

Schneiders giữ nguyên vẻ mặt không hài lòng, nhưng ông thả lỏng hai tay và ngồi xuống, vì không muốn làm gián đoạn buổi học thêm nữa. “Được rồi, cậu có thể thư thả được rồi, Dennis. Và đừng quên gửi lời cảm ơn tới người bạn mới của mình đấy nhé.”

***

John Clapton vươn vai duỗi gân cốt trên chiếc ghế tựa bọc nệm, ngáp lớn. Bình minh của gã luôn bắt đầu khi trời đã xế trưa, nhưng lần này thì không cùng với chai bourbon hiệu Buffalo Trace, “cục cưng” của gã như thường lệ. Và đó là điểm khác biệt duy nhất.

Gã ngẩng đầu nhìn trần nhà. Các đường nhãn quang đâm chọc khắp bốn hướng của gã đang ra sức lôi kéo chủ nhân nó thoát khỏi thể trạng uể oải sau một giấc ngủ dài, và chứng đau nửa đầu kinh niên bởi việc dung nạp quá nhiều chất etanol.

Gã vẫn chưa tỉnh táo hẳn. Thói quen thở bằng miệng làm cho cổ họng gã khô không khốc. Rất nhanh sau đó, gã bắt đầu vận động các chi truy tìm “cục cưng” của gã mà chẳng cần gửi tín hiệu lên não bộ. Thế rồi gã sực nhớ lại buổi nói chuyện tại bàn ăn tối qua cùng Dennis và lời thề bỏ rượu. Gã liền gằn lên một tiếng bứt rứt khó chịu và cảm thấy tiếc ngẩn ngơ. Nhưng lời thề đã thốt ra là gã sẽ thực hiện nó cho bằng được.

Gã khó khăn nhấc thân hình quá khổ khỏi tấm đệm ghế đã từ lâu đánh mất độ đàn hồi. Một cơn đau đầu đột ngột ập tới làm cho cảnh vật trong mắt gã chao đảo, buộc gã phải cúi gập người xuống để khỏi ngã. Các dòng dãi dớt chảy ra từ đôi môi nứt nẻ của gã nhỏ thành các giọt nối tiếp nhau chảy xuống sàn nhà, một số vấy lên cả chiếc áo ba lỗ màu be loang lổ do không giữ nổi màu trắng nguyên thủy vì bụi bẩn và các chất đào thải từ cơ thể lâu ngày gây nên.

Gã quỳ rạp trên sàn nhà chừng đâu hai ba phút gì đó, chờ cơn đau đầu dịu dần đi, vuốt tay dọc sống mũi rồi ngoái cổ khó nhọc ngước lên đọc đồng hồ treo tường: 12 giờ 49 phút. Gã lẩm nhẩm việc hôm qua gã tỉnh giấc vào 12 giờ 40 phút và hôm trước đó là 12 giờ 43 phút. Điều này có vẻ vô nghĩa với nhiều người, nhưng nó làm gã bật cười vui sướng, vì có vẻ như đồng hồ sinh học của gã vẫn còn chạy tốt chán. Vẫn chưa đến lúc mọi thứ đảo lộn và gã còn lâu mới phải đối mặt với cái chết.

Gã loay hoay vịn tay vào thành chiếc ghế bọc nệm và đứng dậy, chậm rãi thoát khỏi phòng khách. Các cơ quan cảm nhận liên tục gửi tín hiệu cảnh báo lên não bộ gã. Cả hai bên huyệt thái dương gã đau âm ỉ như bị ai đá trúng. Nhưng gã làm thinh như không biết gì, kiên trì bước về phía cuối hành lang, bỏ qua tất cả. Bởi vì gã cần phải “giải quyết nỗi buồn”.

Bóng đèn trần phòng vệ sinh được bật sáng, ánh sáng rạng rỡ phát ra từ chiếc bóng điện bắt buộc đôi mắt nhạy cảm của gã phải nhắm chặt lại. Gã tiến tới bồn nước với đôi mắt nhắm tịt nhờ thuộc lòng vị trí. Vặn vòi rồi vỗ nước lên mặt, cảm giác lành lạnh như kim châm ngấm vào da thịt khiến gã rùng mình sảng khoái. Gã he hé mí mắt rồi ngắm nhìn hình ảnh phản chiếu của mình trên bề mặt gương lấm tấm bụi bẩn và chợt rùng mình ghê tởm. Gã cảm thấy sợ hãi bộ dạng của chính mình.

Không dám đối mặt với hình ảnh xấu xí của bản thân, gã xoay người dứt khoát và đá nắp bồn cầu cái đùng như muốn trút giận lên nó. Giữa lúc giải quyết nỗi buồn, gã vô thức xoáy ánh mắt đăm chiêu nhìn vào dòng chất thải màu vàng sậm đang trôi tuột khỏi cơ thể gã và bắt đầu chất vấn, mặc dù thâm tâm gã chẳng biết là sẽ chất vấn cái gì, chất vấn về vấn đề gì? Nhưng gã sẽ chất vấn.

Gã trầm mặc một lúc lâu sau đó, dòng nước tiểu cũng đã dứt mà mãi chẳng nặn ra được gì. À phải rồi, gã nảy lên trong đầu một ý nghĩ. Cuộc đời gã từ lâu có còn chút gì đâu để mà chất vấn, cũng giống như các loại tạp chất vừa trôi tuột khỏi cơ thể gã xuống lòng bồn cầu vậy. Chung quy toàn là cặn bã cả.

Một trong số những lý do chính mà gã luôn ép mình phải say xỉn là thế. Gã sợ cái cảm giác tỉnh táo rồi bao thứ chuyện liên quan tới dòng đời đổ xô về như triều cường khiến gã cảm thấy bị chết đuối. Gã là một thằng hèn giống như bao thằng hèn khác, sợ phải công nhận bản thân là một kẻ thất bại.

Gã bỏ ra phòng ngủ. Có một thói quen mà gã không bao giờ cho phép bản thân được quên thực hiện nó mỗi ngày. Đó là gã có một khoản tiền tươi xấp xỉ hai mươi ngàn đô tiền trợ cấp và bảo hiểm của chính phủ từ thời mới bị cho về vườn, được cất giấu bên trong một ngăn chứa bí mật, bố trí kín đáo dưới đáy tủ quần áo. Về khoản tiền lớn này, gã tuyệt đối giữ kín miệng không cho ai biết, vì đây là khoản hưu trí gã dành cho việc dưỡng già sau này. Gia đình thân thích đã ruồng bỏ gã, xã hội cũng bỏ mặc và đào thải gã như một thứ rác rưởi vô giá trị. Và thực lòng đi nào, gã thừa biết một ngày nào đó hai mẹ con Rosaline cũng sẽ bỏ mặc gã giống như bao kẻ đã đến và đi khác. Đấy là thực tế, nên gã phải chuẩn bị.

Hoàn tất việc kiểm tra số tiền bí mật, gã định bụng quay về phòng khách nhưng chiếc dạ dày trống rỗng thúc giục gã phải chuyển hướng. Gã loạng choạng bước giữa hành lang, tự dưng cảm thấy một đau khôn tả ở ổ bụng phải, nửa người tê dại cả đi như bị điện giật, mặt mày tối sẩm lại. Gã thở ra hổn hển, cắn răng cố lết thêm một đoạn, bấu lên tay vịn cầu thang rồi thả mình xuống bậc, ngồi xoa bụng. Cơn đau làm gã chợt nhớ lại lời căn dặn của tay thầy thuốc mà gã đã đến thăm khám vào khoảng ba tháng trước. Khi ấy, gã nhận được lời khuyên ngưng uống rượu, vì gan đã bị tổn hại nghiêm trọng từ nhiều năm trước đó.

Gã mặc kệ.

Rặt một lũ lang băm, gã đã từng nghĩ bụng như thế. Mấy tay thầy thuốc chung quy nói tóm lại toàn là một lũ tráo trở hạng nhất. Hôm nay loại thành phần này không tốt cho cơ thể, ngày mai lại chuyển ý vì chúng có mặt lợi ích đặc biệt khác. Một lũ lừa bịp mạt hạng. Lúc ấy, gã chỉ nghĩ đơn giản là bệnh tình chưa chắc đã giết chết gã ngay lập tức, nhưng thiếu rượu thì gã chắc chắn không sống nổi. Giờ sao tự nhiên, gã lại bỗng cảm thấy hối hận ghê gớm.

Cơn đau ở ổ bụng cuối cùng cũng chịu dịu dần đi. Gã đu người, vịn tay lên trụ chân cầu thang, chờ thêm một lúc để đảm bảo không có gì ngoài tầm kiểm soát sẽ xảy ra, và tiếp tục di chuyển mà không hề hay biết đó là một kiểu đánh lừa cơ thể của não bộ. Đúng như dự đoán, cơn đau ở ổ bụng phải lập tức khởi phát một đợt tấn công mới chỉ sau đó vài bước. Gã ngoắc chân vào nhau rồi bổ nhào, đầu đập sàn nhà lúc cơ thể đổ ập xuống.

Chấn thương ở đầu đẩy gã rơi vào trạng thái ảo giác. Trong cơn mê sảng, tầm nhìn trước mắt gã chợt lóe lên hình ảnh mờ mờ về những ngôi nhà không mái ngói, các bức tường đầy lỗ hổng, và những lớp sơn được thay bằng màu khói đen xịt của đạn cháy, của sự hỗn loạn và sụp đổ. Gã nghe thấy một tiếng nổ lớn, rồi nghe thấy tiếng gào thét tên mình và sự cấp bách tìm kiếm sự giúp đỡ của Bishop - một người đồng đội cũ. Gã vô thức trườn tay lên mạng sườn phải, để lộ một vệt sẹo dài dưới lớp áo ba lỗ, chẳng chịt đường chỉ khâu như chân rết. Phải khẳng định lại, cơn đau vừa rồi tại ổ bụng chưa thấm vào đâu so với lúc gã bị trúng đạn trên cùng vị trí ấy. Cơn đau quỷ quái nhanh chóng lan xuống vị trí đầu gối của gã. Ảo giác lần này có vẻ tệ hơn trước vì chúng vắt ép gã chảy nước mắt. Nó khiến gã gợi nhớ lại vết thương quái quỷ đã cướp hết mọi ý chí sống còn khi nó biến gã thành một tên thọt, thành một loại phế phẩm của chiến tranh.

Bức hình lớn chụp người đàn ông mặc quân phục. Mùi tro tàn của xì gà. Một kệ sách được lấp đầy bằng các mớ tài liệu. Bàn và ghế. Biển chức danh: Đại úy Campell…, là tập hợp của những thứ mà cho tới khi trút hơi thở cuối cùng, gã vẫn bị chúng ám ảnh.

Gã hồi tưởng lại cảnh bản thân ngồi trong căn phòng màu xanh dương xỉ, đón chờ khoảnh khắc cuộc đời rơi xuống đáy vực thẳm. Đại tá Campell bước vào phòng thật oai vệ cùng với người hộ lý của ông. Ngài đặt một tay lên vai gã, bắt đầu bằng một giọng trĩu nặng giả tạo không đánh lừa nổi đôi tai con nít.

Trước chuỗi ngày dài của sự kiện ấy, gã thường xuyên cầu nguyện Chúa vào mỗi đêm để được ban ơn cho một sự thương hại, nhưng không một luồng sáng hi vọng nào rọi xuống gã cả. Họ - phía quân đội, lạnh lùng trao cho gã một tước hiệu mang tính chất danh dự: Người anh hùng của Hoa Kỳ, rồi đá gã về nước cùng với mặc cảm hổ thẹn ngay trên chuyến bay đầu tiên của tuần kế tiếp.

Nỗi đau tinh thần đánh thức gã dậy khỏi cơn ác mộng. Mặc mẹ cái gan không còn nguyên vẹn của gã và lờ thề bỏ rượu với thằng oắt con Dennis. Gã cần rượu. Cần nó ngay lập tức. Cần nó để đánh bóng lại cái tôi gỉ sét của gã. Gã thà chết còn hơn nếu không có nó. Gã điên cuồng bỏ về gian bếp và gần như ức chế phát khóc khi phát hiện ra các ngăn tủ đựng rượu hoàn toàn trống trơn. Đâu rồi? Đâu rồi? Chúng ở đâu rồi? Rượu của gã chạy hết đi đâu mất rồi?

Quay cuồng trong cơn tuyệt vọng, gã nhìn quanh và phát hiện ra một thùng các tông đầy khả nghi được giấu sau góc tủ lạnh. Gã chưa bao giờ nhìn thấy cái thùng chết tiệt đó cả. Liệu có phải rượu của gã được cất giấu ở trong đó không? Gã điên cuồng chạy về phía cuối gian bếp, lôi xềnh xệch cái thùng các tông ra phía trước mình rồi xé tung lớp niêm phong của nó như một con thú bị bỏ đói cả tháng trời.

A ha, rượu của gã đây rồi. Gã cười phớ lớ, chộp nhanh lấy một chai uống dở và xoáy cái nắp chai ngược chiều đồng hồ. Phân nửa rượu còn lại chứa trong cái chai dung tích 750ml tuồn qua thực quản, chảy xuống dạ dạy trống rỗng của gã dễ dàng và chớp nhoáng như cách người ta hắt một xô nước vào giữa lòng sông cạn. Tựa hồ chẳng hề có chuyện gì xảy ra.

Đúng rồi, chính là các vị cay nồng, ngọt ngào của caramel, độ ngậy của kẹo bơ cứng, một chút dấu vết của quế, của rượu rum và của những loại ngũ cốc này đã làm gã mê đắm suốt hàng năm trời. Gã lại có thể cảm nhận được các chồi cảm giác trên chiếc lưỡi bẩn thỉu của gã nhảy múa điên loạn, rồi mệt lử dần đi vì sung sướng.

Trong một tích tắc, men rượu huyễn hoặc tâm trí khiến gã nghĩ rằng bản thân mình đã có tất cả. Ôi, bản thân gã mới thật vĩ đại làm sao. Gã nhìn trần nhà cười điên dại, cười ứa ra nước mắt. Rồi khoảnh khắc vĩ đại ấy nhanh chóng biến mất và bỏ mặc gã ở lại với sự thất bại của thực tế. Nó khiến gã cảm thấy hụt hẫng kinh khủng khiếp. Không cam lòng đánh mất những thứ đẹp đẽ nhất mà gã có được dù chúng chỉ là ảo mộng, gã khui nắp chai rượu thứ hai và uống tiếp. Uống tiếp và uống tiếp. Nhưng không hiểu sao càng uống, gã lại càng muốn khóc. Uống tiếp và uống tiếp. Gã khui gần như toàn bộ số rượu mới trong cái thùng các tông ra rồi uống một lượt mỗi chai một ngụm lớn. Gã uống nhiều tới mức nôn ra cả mật xanh mật vàng nhưng gã vẫn sẽ uống tiếp. Uống tiếp và uống tiếp.

Trước chuỗi ngày dài của sự kiện ấy, gã thường xuyên cầu nguyện Chúa vào mỗi đêm để được ban ơn cho một sự thương hại, nhưng không một luồng ánh sáng hi vọng nào rọi xuống gã cả. Còn ở thời điểm hiện tại, gã đã ngừng nói chuyện với Chúa. Tâm hồn của gã cũng đã trở thành một nhà thờ thiếu vắng âm thanh của các vị mục sư. Vì sự im lặng đã chiếm chỗ của những lời cầu nguyện rồi.

***

“Thứ lỗi, Michael Silverman có phải không?” Dennis sau một hồi do dự, chủ động tiến đến tiếp cận chàng trai đang lướt ánh nhìn trên tấm sơ đồ trường trung học Cliffton, trong tư thế đầu hơi cúi thấp.

Michael hạ tấm sơ đồ khỏi tầm mắt, nhìn Dennis lạ lẫm. “Vâng? Tôi có thể giúp gì cho cậu?”

“Vâng, tôi muốn…” Nó ấp úng, tỏ ra luống cuống. “Ừm, t-tôi…” “Thư giãn đi nào, anh bạn. Tôi sẽ không cắn cậu đâu.”

Dennis đưa một tay lên ôm mặt, cười ngượng. “Xin lỗi. Chỉ là tại tôi… không thật sự giỏi việ cnày cho lắm.”

“Cậu bảo việc gì cơ?”

“Giao tiếp xã hội. Nói chuyện với người khác,” nó lí nhí giải thích. “Dù sao thì, tôi muốn gửi lời cảm ơn cậu vì chuyện ban nãy.”

Michael nhìn qua khoảng không sau vai Dennis và hồi tưởng lại. “À, là chuyện đó,” cậu nói. “Đừng bận tâm. Dù sao thì đó cũng đâu phải là vấn đề gì quá to tát, anh bạn. Nhưng tôi sẽ nhận lời cảm ơn.”

Dennis chăm chú nhìn Michael lúc cậu quay trở lại với tấm sơ đồ. Cậu có những nét điển trai điển hình của một nam sinh trung học, với mái tóc nâu sáng màu được húi cua gọn gàng và khung xương rắn rỏi của một vận động viên. “Cậu muốn tìm lớp học nào?” Nó hỏi, cúi nhìn tấm sơ đồ trên tay Michael. “Tôi có thể giúp cậu tiết kiệm kha khá thời gian đấy.”

Michael mỉm cười, gập gọn tấm sơ đồ trong tay cậu theo các nếp gấp. “Là Dennis, phảikhông?”

“Vâng, là Dennis,” nó lặp lại. “Dennis Williams.”

Michael gãi một bên lông mày, suy nghĩ một lúc. Và rồi cậu nói: “Ở trường này có sân bóng rổ không, Dennis?”

“Có đấy,” Dennis gật đầu. “Nó là một phần thuộc khu nhà đa năng, phía bên kia khuôn viên trường.”

Michael nhìn theo hướng chỉ tay của Dennis. “Vậy phiền cậu đưa tôi qua đó nhé.”

“Không thành vấn đề.”

Trận mưa ban sáng vẫn chưa chịu dứt hẳn. Cơn mưa nhỏ vẫn rơi rinh rích trên mái hiên lợp kính của tòa nhà, bầu trời vẫn đang tối sầm sầm phía trên đỉnh những hàng cây sũng nước đang ngả mình sạp xuống. Họ bước đi trong mưa, buộc phải di chuyển chậm hơn bình thường để tránh những vùng nước lớn nhỏ lấp kín gần hết các khoảng trống của khuôn viên trường. Chẳng ai trong số họ muốn sống chung với một đôi tất ướt nguyên ngày trời cả.

“Nói tôi nghe đi, Dennis. Điều gì đã mê hoặc cậu lúc đó thế?” Michael hỏi.

Dennis nhăn trán lại. “Ý cậu là gì?”

“Là về vụ ban sáng ấy,” Michael nói trong một tâm thế tò mò. “Cả lớp đã đổ dồn sự chú ý về phía cậu trong lúc cậu cứ nhìn chằm chằm vào trong cái ba lô như thể mất hồn. Điều gì đã mê hoặc cậu lúc đó thế?”

Nó lắc đầu, trả lời nhát gừng. “À, chẳng có gì sất.”

Trực giác của Michael mách bảo rằng Dennis đang giấu giếm một điều gì đó. Cậu định hỏi thăm dò câu nữa vì lòng hiếu kỳ trỗi dậy. Nhưng biểu hiện u ám của Dennis đã ngầm báo cho cậu biết rằng việc làm ấy sẽ không được chấp thuận, nên cậu chọn cách im lặng.

“Cả lớp đều quay lại quan sát tôi à?” Dennis hỏi.

Michael gật đầu. “Theo đúng nghĩa đen luôn.”

“Chắc lúc đấy trông tôi ngu lắm.”

Cậu mỉm cười. “Thì có khác bây giờ là mấy đâu.”

Trời bỗng nhiên nổi cơn gió lớn, bứt một cành bạch quả khỏi thân cây, cắt xoẹt ngang qua ngay phía trước tầm mắt họ. Lúc nghe thấy tiếng rắc, các giác quan vận động viên nhạy bén của Michael đã lập tức được đánh thức. Cậu chủ đã động vươn tay sang để che chắn cho Dennis mà chẳng màng đến bản thân, trong khi nó còn chưa kịp hiểu chuyện gì đang diễn ra.

“Có chuyện gì thế?”

“Cây gãy,” Michael nói. “Cẩn thận đấy, anh bạn.”

Dennis nhìn cành cây gãy lăn tròn trên một góc sân và nhanh chóng hiểu ra chuyện, gửi lời cảm ơn đến Michael. Cậu cười và bảo rằng không nhất thiết phải nói lời cảm ơn cứ mỗi lần một chuyện nhỏ nhặt xảy ra như thế và nó đồng ý, mặc dù không nghĩ bản thân mình làm được.

“Cậu có thấy tôi bất thường không?” Dennis hỏi.

“Vẫn nghĩ về chuyện đó à?” Michael chớp chớp mắt. “Không, cậu xem chừng bình thường với tôi mà.”

“Cậu không nói thế chỉ vì thiện chí đấy chứ?”

“Nhiều người nói dối để đạt được thứ mà họ muốn, nhưng tôi thì không,” cậu nói, nhẹ nhàng đặt một tay lên vai Dennis. “Bởi vì tôi là kiểu người cậu có thể yên tâm gọi là bạn đấy.”

Cách họ khoảng chục thước, nơi có mặt tiền là những bức tường kính cường lực cao tới hơn bốn mét, là khu nhà đa năng. Sau một cuộc trao đổi ngắn, Dennis thuyết phục Michael di chuyển vòng qua bên hông tòa nhà và sử dụng lối đi phụ để né tránh những đám đông phiền phức và cậu đồng ý.

“Michael này, dựa vào chất giọng thì tôi đoán cậu tới từ miền Nam phải không?”

“Houston, Texas, bạn của tôi.”

“Vì lý do gì mà cậu lại chuyển đến Kansas vào giữa học kì thế này?”

Cậu trề môi ra. “Chuyện gia đình thôi, có hơi riêng tư để kể. Cậu thông cảm nhé.”

“Ồ, không sao. Tôi hoàn toàn hiểu,” Dennis nói, đặt tay trước ngực ra vẻ là lỗi của mình. “Tính tôi thi thoảng vẫn hay nhiều chuyện như thế đấy.”

Trận mưa dai dẳng làm đám giun đất chui đầy lên trên mặt đường trám xi măng từ những bồn sơn trà và tuyết điểm. Thật khó để có thể nhìn vào chúng mà không bị những hình ảnh nhẫy nhụa sởn gai ốc đó quấy rầy. Michael vuốt nước mưa trên đầu rồi khẽ vẩy cho nước rơi xuống khi họ đứng dưới mái hiên cổng phụ khu nhà thể chất; kiểu tóc húi cua phần nào tạo cảm giác mái tóc cậu khô ngay lập tức. Dennis đẩy cánh cửa kép và họ bước vào bên trong khu nhà đa năng.

“Cậu có chơi bóng rổ không, Dennis?” Michael hỏi.

Nó lắc đầu. “Tôi không. Tôi và mấy môn thể thao không được hòa hợp với nhau cho lắm.”

“Thế thói quen thường ngày của cậu là gì?”

“Tôi vẽ.”

“Ồ, biết ngay mà,” Michael nói, như thể cậu đã ngầm đoán ra được điều đó từ trước. “Chỉ cần nhìn lướt qua anh bạn là tôi đã có thể thấy chất nghệ sĩ toát ra từ con người cậu rồi.”

“Thật á? Phiền cậu chỉ ra xem chỗ nào trên người tôi toát ra chất nghệ sĩ mà cậu bảo có được không? Tôi cần được biết.”

“Chà thì… N-nó… Tôi…”

Dennis phì cười. “Thư giãn đi nào, anh bạn. Tôi chỉ chọc cậu chút thôi.”

Cả hai bắt gặp ánh mắt của nhau và cùng phá lên cười. Lúc họ di chuyển đến giữa hành lang, mọi sự chú ý của Michael lập tức bị thu hút bởi chiếc tủ trưng bày các cúp, và các tấm huy chương thành tích của đội bóng rổ trường trung học Cliffton.

“Tìm thấy gì hay ho không?” Dennis hỏi.

“Không tệ,” Michael nói, dựa một tay lên mặt tủ kính. “Ít nhất thì mấy anh chàng này cũng biết chơi bóng đấy. Tôi từng đối đầu với họ vài lần rồi. Không dễ xơi chút nào.”

“Ồ, cậu chơi bóng chuyên nghiệp?” Dennis hỏi.

Michael nhún vai.“Đã từng thôi.”

“Đã từng thôi ư? Thế nghĩa là giờ cậu đã từ bỏ việc chơi bóng rồi à?”

Michael quay ngoắt sang nhìn Dennis, hai mắt mở lớn giống như thể cậu vừa bị ai đó túm vào tóc gáy đầy thô lỗ. Sau đó cậu nhìn xuống dưới chân cùng một biểu hiện ủ rũ khủng khiếp và rơi vào im lặng. Dennis không hoàn toàn hiểu rõ cái nhìn vừa rồi của Michael dành cho mình, nhưng có cảm giác giống như nó vừa thốt ra một điều gì đó thật độc ác với cậu.

Michael thôi dựa tay vào tủ kính và giấu hai tay vào trong túi áo khoác. Cậu xoay lưng lại, lùi xa chiếc tủ trưng bày như thể đang chạy trốn khỏi một điều gì đó đã từ lâu không còn dành cho cậu. Có một điều gì đó ở những tấm huy chương này đang khiến cậu tổn thương. Cảm giác cắn rứt như một thực thể sống hiện hữu, bám lên đôi vai trĩu nặng của cậu. Và sự im lặng bất đồ của cậu hoàn toàn nhấn chìm tất cả những tiếng trò chuyện xì xào của những người có mặt xung quanh đây.

“Michael, có phải tôi đã nói một điều gì đó không nên không?”

Dennis nghe thấy một tiếng thở dài não nề của Michael trước khi cậu xoay người lại. “À, cậu không nói điều gì sai cả,” cậu bảo, cố ra vẻ tươi tỉnh. “Tôi phiền cậu một lát được chứ, Dennis?”

Dennis gật đầu. “Tất nhiên rồi. Nhưng vào việc gì?”

“Chơi bóng với tôi một lát đi,” Michael nói. Sau đó cậu đi thẳng về phía khu vực sân bóng, nơi được treo tấm biểu trưng là hình đầu một con gấu xám Bắc Mỹ đang nhe nanh gầm gừ.

“Từ từ đã nào, Michael,” Dennis gọi, cố đuổi kịp cậu. “Có lẽ cậu chưa nhận ra, nhưng tôi nào có biết chơi bóng đâu.”

“Tôi biết là cậu không chơi bóng. Nhưng đổ mồ hôi một chút cũng tốt mà.” Cậu mỉm cười, nháy mắt. “Đừng lo, tôi hứa sẽ nhẹ nhàng thôi.”

Dennis không còn cách nào khác ngoài theo chân Michael đi vào sân bóng. Điều may mắn là sân bóng rổ hiện tại chỉ có riêng mình họ. Michael đi tới chỗ thùng đựng bóng nằm bên góc tường phía đối diện và thảy một quả bóng về phía Dennis đang đứng gần mép cửa ra vào. Quả bóng màu cam nảy lên mấy tiếng đanh khắp căn phòng rồi trượt khỏi tay Dennis ở những giây cuối cùng, khi nó cố gắng bắt lấy quả bóng. Vì một lý do nào đó, cảnh tượng trên đủ thú vị để khiến cho Michael cười khúc khích suốt một lúc lâu.

Dennis nhặt quả bóng lên và xoay tròn nó giữa hai lòng bàn tay để thăm dò xem tạo vật này có đặc điểm nào thú vị, nhưng rốt cuộc không tìm ra được gì. “Được rồi, cậu muốn chúng ta bắt đầu thế nào đây?”

Michael chỉ tay ra giữa sân bóng và bảo Dennis đi ra đó. Cậu cũng làm điều tương tự. “Khởi động tay chân một chút. Chúng ta chuyền qua chuyền lại nhé.”

Dennis đập quả bóng xuống đất hai lần, rồi đẩy bóng qua chỗ Michael. “Cậu chơi bóng rổ được bao lâu rồi?”

Michael nhận bóng. “Ồ, xem ra ai đó cũng biết cách bắt đầu đấy chứ.” Cậu cười và chuyền lại. “Tôi bắt đầu chơi bóng kể từ khi tôi biết chạy.”

“Vậy… tôi sẽ nói đâu đó trong khoảng ba hoặc bốn tuổi,” Dennis nói khẽ, như thể không chắc chắn lắm.

Michael ngỡ ngàng, nhìn Dennis không chớp. Phải mấy giây sau, cậu mới mở miệng ra được. “Ba tuổi, Dennis ạ. Tôi đã làm quen với trái bóng rổ từ khi tôi ba tuổi.”

“À, khá là lâu rồi đấy chứ. Tôi cho là không một ai đủ kiên nhẫn để theo đuổi một thứ lâu đến thế mà lại không có tình yêu với nó.”

“Tôi cũng tin vậy.”

“Vậy cậu muốn nói về chuyện (từ bỏ chơi bóng) đó không?”

Michael để lỡ cú truyền bóng của Dennis và quả bóng đập vào ngực cậu. Mặt cậu đỏ ửng lên, nhưng Dennis không cho rằng nó có liên quan tới cú va chạm vừa rồi.

Michael lặng lẽ cúi xuống nhặt quả bóng, ngắm nhìn nó trên tay. “Cậu bắt đầu vẽ từ khi nào,Dennis?”

“Từ khi tôi biết cách cầm bút. Cha tôi là người đã truyền cảm hứng cho tôi.”

“Và cậu đã giữ ngọn lửa đam mê đó cháy tới tận bây giờ?”

“Ban đầu thì không,” Dennis nói, giữ quả bóng trên tay sau khi nhận cú chuyền của Michael. “Nhưng cái chết của ông giống như một chất keo đã gắn chặt tôi với chiếc bút vẽ. Tôi tiếp tục vẽ cho tới bây giờ là bởi vì nó cho tôi hy vọng, dù chỉ có ý nghĩa về mặt tinh thần, rằng chừng nào tôi còn tiếp tục vẽ, cha tôi vẫn sẽ tồn tại trên thế giới này.”

Michael sững lại, ngực cậu hơi phồng lên cùng nét bàng hoàng thoáng xuất hiện trên gương mặt đầy vụng về. “Tôi rất lấy làm tiếc, Dennis,” cậu lắp bắp nói. “Tôi không có ý gợi lại–”

Dennis ngắt lời Michael bằng một cái lắc đầu. “Đừng. Không sao đâu. Đó đã là câu chuyện của mười bốn năm về trước rồi. Tôi và mẹ cũng đã nhất trí với nhau sẽ ngừng thương tiếc về cái chết của ông để chúng tôi có thể bước tiếp. Vậy nên…” Nó cười nửa miệng, nhún vai kiểu cậu hiểu ý tôi muốn nói rồi đấy. “Giờ thì nói đi nào, câu chuyện của cậu là gì?”

Michael cảm thấy ruột mình quặn lại. “Tôi hiểu ý tốt của cậu, Dennis. Nhưng chúng ta chỉ vừa mới quen biết nhau.”

“Ồ, tất nhiên rồi,” Dennis nói. “Tôi hoàn toàn tôn trọng quyền riêng tư của cậu.”

Michael lướt mắt qua phía Dennis và cậu bỗng cảm thấy không thể hiểu nổi mình. Có một điều gì đó thật bất ổn đang đấu tranh trong cậu. Nó giống như thể cậu đang khao khát một điều gì đó nhiều hơn là “một sự tôn trọng quyền riêng tư” từ phía Dennis. Trái tim cậu thắt lại và hơi thở cậu bị rút cạn. Cậu liếm môi khô khốc trao ánh mắt cho Dennis lần nữa. “Chỉl à… Tôi không chắc liệu mình đã đủ sẵn sàng để nói điều đó ra vào lúc này, Dennis ạ.”

Và sự thừa nhận của Michael như ngầm chỉ ra cho Dennis thấy một tia sáng. “Không có gì là quá sớm hoặc quá muộn để sẵn sàng cho một việc nào đó, Michael ạ. Chúng ta phải tự tạo ra thời gian cho chính mình.”

Dennis bước từng bước nhỏ lại gần Michael, nhận ra gương mặt cậu đã thay đổi thế nào so với mười phút trước đây. Vẻ mặt tự tin và nụ cười đầy sự thiện cảm bằng cách nào đó đã bị gột sạch hoàn toàn khỏi gương mặt cậu. Cậu đã không (thể) còn cười như vậy nữa. “Chúng ta, nhìn theo một hướng nào đó, giống nhau,” nó nói. “Tôi biết rõ ánh mắt của cậu, biết cả cái cách mà cậu căng mình ra để kìm hãm thứ cảm xúc mất mát chôn sâu trong trái tim cậu thoát ra ngoài, và biết thế giới sẽ trở nên đáng sợ tới mức nào khi thứ cảm xúc ấy thoát ra được bên ngoài. Nhưng tin tôi đi, Michael. Đôi khi chúng ta cần phải chấp nhận nỗi đau để vết thương được chữa lành.”

Michael cụp mắt xuống, im lặng.

“Đây.” Dennis giơ quả bóng màu cam lên trước ngực Michael. “Hãy xem quả bóng này là sự tượng trưng cho miếng băng gạc đang bịt kín vết thương trái tim cậu,” nó nói, ấn quả bóng vào tay Michael, không cho cậu bất kì cơ hội nào ngoài việc đón nhận nó. “Hãy ném quả bóng này đi thật xa với tất cả nỗi lòng của cậu. Xé toạc miếng băng gạc đó ra và cho phép trái tim cậu chảy máu.”

Michael nhìn lòng bàn tay Dennis ấp lên mu bàn tay mình, cảm thấy bản thân như được truyền cho sức mạnh. Đã rất lâu rồi cậu mới lại được cảm nhận một sự truyền cảm hứng mãnh liệt đến thế. Thế nhưng liệu điều đó có đủ để cậu làm điều này không? Cậu giữ im lặng mãi và trao cho Dennis một ánh nhìn không chắc chắn. Nhưng bằng cách nào đó mà Dennis không cần nhiều hơn thế ngoài một sự im lặng để có thể hiểu cậu muốn nói gì.

“Nghe này,” nó nhẹ nhàng nói. “Cậu không cần phải thuyết phục bản thân mình có thể làm được điều này, Michael ạ. Cậu chỉ cần nhắm mắt và để nỗi đau dẫn lối cho cậu tới nơi cậu cần phải đến. Chỉ vậy thôi.”

Michael mỉm cười cùng đôi mắt ướt. “Cuộc trò chuyện này thật quá kì lạ cho lần đầu gặp mặt đấy, cậu biết chứ?”

Dennis bật cười. “Thì tôi đã bảo cậu rồi mà. Tôi không giỏi nói chuyện với người khác cho lắm đâu.”

Nói tới đó, Dennis buông tay Michael, tạo điều kiện cho cảm xúc của cậu được tự do trỗi dậy. Trong suốt một phút đầy, Michael lặng lẽ hướng mắt nhìn về phía trụ bóng rổ, và cậu bứt tốc chạy. Mồ hôi lạnh chảy xuống cổ cậu, nỗi đau ẩn giấu trong tiếng giày cậu vang vọng khắp căn phòng. Cơ thể cậu thay đổi nhanh chóng trong giây phút. Giống như cậu đang quay ngược lại thời gian, cố lôi ra bằng hết tất cả những nỗi lòng mà cậu chôn giấu trong quá khứ và phơi bày chúng với hiện tại, lồng chúng vào nhau, nắm lấy sự kiểm soát, đưa chúng về chung một nhánh của dòng chảy thiêng liêng và chấp nhận tất cả chúng là của cậu, và cậu là của chúng.

Trụ bóng rổ rung lên khi Michael thực hiện cú úp rổ. Rồi cậu đứng sững lại đó sau khi nỗi lòng chuyển hóa thành một tiếng hét, để mặc quả bóng lăn tròn sang một góc phòng. “Tên của cậu ấy là Mark Garner. Cậu ấy là bạn thân nhất của tôi trong đội bóng rổ hồi còn ở Houston, và cậu ấy đã quyết định tự sát bằng cách gieo mình từ sân thượng tòa nhà xuống dưới sân trường. Bốn tháng trước.”

Dennis không thể nhận ra biểu cảm gương mặt Michael từ góc độ này, nhưng có lẽ điều đó không thật sự cần thiết. Nó tự hỏi Michael sẽ làm gì tiếp theo trong lúc chầm chậm bước về phía cậu, đặt tay lên lưng cậu; tự dặn mình đừng có mở miệng hỏi lý do nào đã dẫn dắt anh chàng Mark Garner tới quyết định tự sát đầy cay nghiệt như thế, vì cảm thấy bản thân cần phải tôn trọng người đã khuất. Suy cho cùng, dù là lý do nào thì nó cũng chẳng còn quan trọng nữa.

“Tôi đã không có mặt khi Mark trút hơi thở cuối cùng và cũng không ở đó khi họ chôn cất cậu ấy. Tôi đã không thể chấp nhận sự thật và trốn chạy khỏi cái chết của cậu ấy, Dennis ạ. Tôi là một tên khốn hèn nhát, phải không?”

“Đừng ngốc thế,” Dennis nói, xòe tay ra cho Michael nắm lấy. “Chúng ta đều là những kẻ hèn nhát khi đối mặt với những mất mát to lớn.” Michael nhìn xuống bàn tay rộng mở đang chờ sẵn rồi ngước lên nhìn Dennis, đón nhận lấy cái nắm tay của thằng nhóc. Và Dennis nói tiếp. “Hãy sửa nếu tôi sai, nhưng cậu chưa từng một lần bộc bạch với ai cảm xúc của cậu về cái chết của Mark phải không?”

“Cậu không sai,” Michael nói. “Và nếu như Mark ở đây, cậu ấy sẽ mắng tôi là một thằng ngốc.”

“Cậu ấy luôn ở đây,” Dennis ấn tay lên ngực Michael, hiểu rằng mình đang từng bước tiến vào bên trong trái tim cậu; đã tra chìa khóa lên cánh cửa cuối cùng của cuộc hành trình này, và không có lý do gì để không mở tung cánh cửa ấy. “Cậu cần phải làm nốt công việc này, Michael. Hãy kể với tôi, kể về những cảm xúc đó. Chúng sẽ an toàn tuyệt đối khi ở bên tôi.”

Trong một phút đầy, Michael không thể nghe thấy gì ngoài những tiếng gào thét của chính cậu. Những cuộc đấu tranh tư tưởng lần nữa trỗi dậy trong tâm khảm và hét vào mặt cậu: chạy đi; và chúng thuyết phục cậu không nhất thiết phải làm chuyện này. Những gì thuộc về bóng tối nên để nguyên trong bóng tối. Nhưng Mark đã xuất hiện trước mặt cậu vào đúng thời khắc quan trọng ấy, trong đôi mắt của Dennis. Mark khuyên cậu hãy để anh ấy đi, và đã tới lúc để cậu bước tiếp. Những chương cũ của một cuốn sách cần được đóng lại khi chúng đã tới hồi kết thúc.

Và cậu chấp nhận.

“Vào thời điểm tôi nhận được tin dữ về cái chết của Mark, tôi đã tưởng rằng mình sẽ rơi vào bất ổn và trở thành một mớ hỗn độn. Nhưng hóa ra lại không. Thực tế luôn là thứ gì đó đơn giản tới mức tàn nhẫn hơn thế nhiều.” Michael nói. Hai mắt cậu nhắm nghiền lại, cảm thấy nghẹn ở cổ họng và sức nóng lan dần trên khuôn mặt. “Trong nhiều tuần liền, tôi chỉ ở yên một chỗ và quan sát bản thân trôi nổi như những cơn sóng ngoài biển, học theo sự vô lo của chúng, mặc gió tạt mình vào bờ rồi biến thành những đám bọt trắng xóa và tan ra như chưa từng tồn tại, mà chẳng buồn biết mục đích cuối của cuộc hành trình ấy là gì. Tôi đã ép mình không còn quan tâm nữa. Tôi muốn mình không còn quan tâm nữa. Và tôi thực sự đã không còn quan tâm nữa. Nhưng cậu nói đúng, Dennis ạ. Mark luôn ở đây, và cả cái chết của cậu ấy cũng vậy. Họ chưa từng rời đi.”

“Có vẻ đối với cậu, Mark còn ý nghĩa hơn cả một người bạn thân?” Dennis dụt dè hỏi.

Xương quai hàm Michael cộm lên khi hàm cậu nghiến lại. Dennis có cả giác như cậu đã cố cưỡng lại cái gật đầu để né tránh câu hỏi của mình.

“Cám ơn cậu, Dennis,” Michael nói, gạt nước mắt bên dưới vị trí quai hàm và để nguyên bàn tay ở đó như thể đặt một tấm khiên giữa hai người, che đi một nửa gương mặt, và nửa gương mặt còn lại của cậu là một nụ cười gượng gạo. “Ban đầu tôi đã không thật sự muốn đến trường. Nhưng nhờ có cậu mà ngày hôm nay đã trở thành một ngày tuyệt vời mà tôi có trong suốt một thời gian dài. Tôi thật sự cần điều này hơn bao giờ hết đấy.”

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout