Miệng



Miệng


Ngày hôm đó, Huy đã bảo với Giác rằng một câu chuyện nhất định sẽ phải bắt đầu từ đâu đó. Huy luôn là hình ảnh tuyệt vời nhất mà Giác muốn hướng đến, như một biểu tượng tín ngưỡng không thể bị phá huỷ. Anh tự hỏi chẳng biết bây giờ bên Úc thế nào, nghe bảo các nước bên ấy đều chao đảo vì dịch bệnh cả.

Một câu chuyện nhất định sẽ phải bắt đầu từ đâu đó. Có thể bắt đầu ngay từ lúc mọi thứ chuẩn bị xảy ra, hoặc bắt đầu ngay ở giữa câu chuyện – lúc mọi thứ đang diễn ra: con dao đang phóng tới, một người đang rơi xuống, hai kẻ đang hôn nhau – hoặc bắt đầu ở cuối rồi lần ngược lên đầu. Tất cả đều là lựa chọn sắp xếp của tác giả. Có nhà văn lựa chọn cách mở đầu thế này và có người chọn cách mở đầu thế khác, miễn cảm thấy phù hợp là được. Câu chuyện Giác đang đọc có một mở đầu đúng chất mở đầu: một người nằm trên giường bệnh và một người ngồi bên cạnh nhìn bệnh nhân, sau đó người bên cạnh lại nhìn bức tranh treo trên tường với vô số suy nghĩ tuôn như thác lũ.

Giác thích kiểu tự sự thế này: những suy nghĩ nối nhau dài dằng dặc, một khoảnh khắc bị kéo dãn đến vô cùng, lê thê với hằng hà sa số câu hỏi hay câu trả lời, suy tư, chiêm nghiệm, giải thích lung tung. Tất cả chỉ để khai thác kiệt cùng một con người duy nhất. Anh từng đọc bản thảo tiểu thuyết của một tác giả trẻ. Cậu tác giả này là một trong số học trò thân thiết của anh. Cậu ấy nhờ anh đọc và cho cảm nhận về tác phẩm cậu đã viết xong khá lâu rồi. Ban đầu, Giác không nghĩ mình sẽ có đủ thời gian để đọc hết (bản thảo hơn 300.000 chữ, trời ạ, một con số khủng khiếp). Anh vẫn còn nhớ tên tác phẩm, cũng là một cái tên dài đến ấn tượng: Đêm hôm ấy, có những ai đã ghé qua thăm.

Danh sách tác phẩm đọc vì nghĩa vụ của Giác rất khủng khiếp, tốc độ đọc của anh thì lại chậm, nên Giác đã nghĩ khả năng cao anh không thể ngơi tay để đụng đến bản thảo ấy, chứ nói gì đến việc đọc hết và cho nhận xét. Song, bằng cách nào đó anh đã mở chiếc file được gửi lên và suốt cả tuần, anh dành hết thời gian rảnh để đọc mỗi tác phẩm ấy. Diễn biến của câu chuyện chỉ gói gọn trong một đêm. Nhân vật chính bấy giờ đã sáu mươi tư tuổi ngồi nhớ lại một đêm năm mình sáu tuổi. Không biết vì lý do gì, ông ta vẫn còn nhớ rõ mồn một trong đêm hôm ấy gia đình mình đã đón tiếp bao nhiêu vị khách. Những vị khách bí ẩn, choàng áo và đội mũ kín người, như có bí mật nào đó muốn che đậy. Không khí câu chuyện đem đến cảm giác như trong cái đêm hôm đó, đã có một sự kiện khủng khiếp nào đã xảy ra và sự kiện ấy có mối quan hệ trực tiếp với ngôi nhà của ông, cùng với những người khách ghé qua thăm. Phải, đấy là một tác phẩm cuốn hút Giác đến tận cùng vì cái bầu không khí ám muội, u tối, tẻ nhạt, từng giờ từng khắc trôi qua nặng như chì, với lối hành văn lê thê đến bất thường. Giác ấn tượng nhất là phân đoạn tác giả dùng gần một trăm trang giấy A4 chỉ để kể đoạn ký ức về người mẹ của nhân vật chính, vào cái ngày bà chở cậu đến trường trên xe đạp – tin được không, chỉ tả một người mẹ đạp xe và con đường đến trường mà tốn tận gần một trăm trang giấy? – và trong đoạn ký ức này dường như không có gì xảy ra cả.

Không có gì xảy ra cả. Đây mới là vấn đề. Đùng một phát, cuối ngày hôm đó, bà mẹ cậu tự sát.

Không có gì xảy ra cả. Đột nhiên, một người đi tự sát.

Không có gì xảy ra cả.

Giác bật khóc nức nở khi đọc hết phân đoạn này. Không có gì xảy ra cả nhưng lại khiến anh bật khóc.

Y hệt thế, toàn bộ tác phẩm hơn 300.000 chữ cũng không thật sự có một sự kiện nào. Mọi thứ chỉ được dàn trải xoay quanh ký ức của người đàn ông già cỗi về một đêm có vẻ ngẫu nhiên trong đời mình, với vô số hình hài chồng chéo, thoắt đến thoắt đi, thoắt ẩn thoắt hiện. Họ cứ đến và cha cậu bé cùng em trai ông đón tiếp họ, mọi người ăn uống và nói chuyện trong phòng khách. Cậu bé thì lại không được phép vào, chỉ có thể ở bên ngoài nghe loáng thoáng chữ được chữ mất và cố đoán ra nội dung của cuộc trò chuyện ấy. Cứ vậy đều đặn đến hết tác phẩm. Hoàn toàn tẻ nhạt, hoàn toàn trôi tuột, hoàn toàn không điểm nhấn. Không có gì thật sự xảy ra suốt cả cuốn tiểu thuyết dài ngoằng ấy. Câu chuyện kết thúc khi trời sáng, cậu bé sáu tuổi thiếp đi trên giường, và ở hiện tại, ông già sáu mươi bốn tuổi cũng thiếp đi.

Ai đó sẽ thắc mắc: rốt cuộc nó kể về cái gì vậy? Một nhà văn nào lại viết ra thứ như thế này, với mục đích gì? Chẳng có gì xảy ra trong câu chuyện ấy cả!

Làm sao không có gì được, trời ạ, làm sao không có gì được! – Giác thầm nghĩ. Anh không hiểu bằng cách nào một cậu sinh viên non trẻ và yêu đời lại viết ra tác phẩm như thế. Không nói đến dung lượng đáng nể, chỉ riêng sức nặng của câu chuyện ấy đã khủng khiếp lắm rồi. Sao chúng ta lại không tìm thấy gì đó ở nơi không có gì cả? Giác bị câu chuyện ấy ám ảnh đến tận bây giờ, lâu lâu lại vô thức nghĩ về nó.

Và tất nhiên, chẳng nơi nào nhận in và Giác gần như trở thành độc giả duy nhất của nó – cậu sinh viên cũng có gửi file bản thảo cho vài người bạn nhưng dường như ai cũng chần chừ không dám nhảy vào mớ chữ đấy. Dù sao thì cậu ta cũng cười cười – cười là tốt rồi – bảo rằng không sao, cậu ấy biết tác phẩm của mình rất khó được xuất bản và ít ra có một độc giả thích nó cũng đã quá tuyệt vời với cậu. Giác biết, làm gì mà “tuyệt vời” cho được!

Và như có thể đoán ra, sau này, những tác phẩm khác của cậu học trò (dù được in ấn đẹp mắt và lượng bán ra cũng ổn) không thể vượt qua được tác phẩm ấy, ít nhất là trong lòng Giác.

⬩⬩⬩

“Bản Tịnh và Mãn Giác?” Giác lẩm bẩm đọc tên của hai nhân vật chính trong truyện ngắn. Mãn Giác thì anh biết rồi, ngay từ khi đọc cái tiêu đề Cáo tật thị chúng, anh đã đoán được câu chuyện này sẽ kể về Mãn Giác và bài kệ của ông. Nhưng còn Bản Tịnh là một cái tên lạ đối với anh, anh không rành về lịch sử hay văn chương Trung đại Việt Nam lắm, thơ Thiền cũng biết rất mù mờ qua vài học phần hồi Đại học và Thạc sĩ.

Giác có một thói quen được nhiều người bảo là rất tốt, nhưng cũng có nhiều người khác bảo là rườm rà, đó là khi đọc một tác phẩm văn chương, nếu có điểm nào không biết thì anh sẽ chạy đi tra ngay. Người bảo tốt thì cho rằng đó là cách chúng ta thu nạp kiến thức liên tục, đọc sách với tâm thế chủ động, còn người bảo không tốt thì cho rằng làm như thế sẽ gây đứt mạch tác phẩm nghệ thuật, không “xuôi dòng” theo con chữ. Song, chỉ đơn giản là Giác không thể cứ để mãi sự tò mò trong đầu, anh cần phải hiểu mình đang đọc gì. Anh tra thử cái tên Bản Tịnh, mới biết đó chính là một người đệ tử của Mãn Giác. Tất nhiên không phải đệ tử bình thường mà là đệ tử ruột, sau này Bản Tịnh chính là người nối tiếp Mãn Giác trong dòng thiền Vô Ngôn Thông. Lựa chọn và dựng tình huống trong truyện ngắn của người tác giả bí ẩn này hoàn toàn hợp lý và dễ hiểu.

Tuy nhiên, trái với suy đoán của Giác, nhân vật chính trong truyện ngắn này, hay đối tượng mà truyện khai thác lại không phải sư Mãn Giác mà là người đồ đệ Bản Tịnh. Mà Bản Tịnh trong tác phẩm lại được miêu tả với đời sống nội tâm khá kỳ lạ. Như thể ông ta không phải được xây dựng dưới hình tượng một nhà sư đạo cao đức trọng, hiểu thấu lẽ đời, chuyên tâm tu tập và là người học trò được người thầy mình gửi gắm toàn bộ tương lai của dòng phái. Nhân vật ấy hiện lên với vô số trăn trở rất đời, thậm chí còn có đôi chút phàm tục, không dính chút nào với Kinh điển Phật giáo lâu nay, cũng không có tí “an nhiên tự tại” của một Thiền sư.

Bản Tịnh này là một cá nhân chứa đầy những mâu thuẫn. Bên dưới vẻ ngoài chỉn chu, bình lặng, hoà nhã của ông là những dòng hải lưu cuồn cuộn, ngấm ngầm luân chuyển và đôi khi dậy động khủng khiếp đến ngộp thở. Dù vậy, bề mặt con chữ cũng giống như nhân vật, cũng rất yên ả và man mác một sự tĩnh lặng, cơ hồ không gì có thể khuấy động được. Cách viết này làm Giác nghĩ đến Thạch Lam – với tư duy của một người nghiên cứu có thói quen liên văn bản – nhưng không có sự u tịch du dương như Thạch Lam, hay thái độ lãng mạn và hiện thực, mà cuồn cuộn phong ba bão táp, những đúng sai phải trái, những nên như thế này hay nên như thế kia, những lẽ đời và lẽ đạo.

Thật khó mà nói phong cách viết như thế là ổn hay không, riêng Giác thì thích nó, nhưng anh dần không còn tin lắm vào gu đánh giá của bản thân, anh cứ thấy gu mình lệch hẳn so với thiên hạ. Vả lại, chính vì cách viết nhẩn nha dông dài ấy mà dung lượng của truyện này mới không đúng với yêu cầu của một truyện ngắn đăng báo thông thường, dù chẳng biết bản in và dàn trang anh đang đọc đã được biên tập cho ngắn lại hết mức hay chưa. Giác xác nhận nó dài không phải vì nhiều sự kiện mà bởi vì cách tác giả viết quá dài dòng. Tác giả đã không dứt ra nổi những suy nghĩ và chiêm nghiệm của nhân vật. Người tác giả bí ẩn nọ, có lẽ vì niềm “tương liên” chăng, “đồng bệnh” chăng, mà đã vô tình nhập mình vào quá sâu, càng viết lại càng lún xuống dòng suy tư của nhân vật, bị kéo đi miên man không nhìn thấy điểm kết.

Giới học thuật đôi khi cũng đánh giá cao thủ pháp này, song nếu nói về mặt thị trường, đây lại là điều nên tránh. Đơn giản là độc giả sẽ không muốn đọc câu chuyện mà trong đó có ông sư này đi kiếm ông sư kia mất tận 3.000 chữ vẫn chưa kiếm ra. Đọc được một chút, Giác nghe tiếng vợ gọi mình từ trên lầu:

“Anh ơi, em bảo này.”

“Ơi, anh lên ngay đây!” Anh nói vói lên. Sau đó dừng ở chỗ đang đọc dở, đứng dậy và bước đến chỗ cầu thang.

Trên lầu, vợ anh nhìn xuống anh, tay cô đang cầm bát cháo. Thuỷ ở trên đó nói với anh ở dưới này:

“Em ăn xong rồi, anh dẹp giúp em nhé!”

Thuỷ đặt bát cháo xuống đầu cầu thang, sau đó lặng lẽ quay trở lại phòng và khép cửa lại. Anh bước lên, đến chỗ bát cháo và nhặt lấy nó. Như thể bát cháo bị ai đó đánh rơi, anh chỉ đi ngang và nhặt nó lên, chứ không phải do chính vợ anh trao tay cho anh. Không giống, mọi sinh hoạt giữa người với người trong giai đoạn này không thể giống như trước được.

Lẽ ra ngày hôm đó anh nên nghe ý kiến Thuỷ, rằng căn nhà của họ cần có một buổi tiệc nho nhỏ, đã quá lâu rồi họ chưa mở tiệc. Cuộc đời cứ cuốn anh đi, cố gắng học Thạc sĩ rồi lại trầy trật học Tiến sĩ, trong khi đó vẫn phải hoàn thành đủ thứ loại giáo án cho đủ buổi đứng lớp. Thuỷ cũng vậy, quá nhiều thứ phải làm, Giác nghĩ với một phụ nữ thì khối lượng công việc hẳn phải nhiều hơn đàn ông nữa, không chỉ là một giáo viên cấp ba, Thuỷ còn là một người vợ, một người mẹ, việc của chị còn nhiều hơn cả chồng và anh biết rõ điều đó (nhưng tại sao với ngần ấy đầu việc nuốt mất thời gian mà Thuỷ vẫn còn có thời gian để phản bội nhỉ?). Nói chung là vậy, họ bị kéo đi, quá lâu rồi chẳng có bữa tiệc nào. Thật ra còn có lý do khác ngoài vấn đề bận rộn, đó là cảm giác kể từ khi bước qua tuổi ba mươi, Giác và Thuỷ tưởng như mình đã đánh mất những thứ ấy rồi: những buổi tiệc, những cuộc tung tăng dạo chơi, những khám phá mới mẻ, những chuyến phiêu lưu, những niềm vui và hạnh phúc. Anh nhớ, trong cuộc đời mình, anh không có nhiều dịp thấy cha mẹ anh tổ chức tiệc tùng – cha mẹ anh không qua lại với nhiều bạn và số lượng bạn bè ngày càng thâm hụt khi người ta có tuổi. Bây giờ anh mới hiểu tại sao lại như thế, đến một độ tuổi nào đó người ta sẽ từ bỏ, người ta sẽ buông tay, người ta sẽ lười biếng tìm kiếm hạnh phúc, người ta sẽ nhận ra niềm vui là những thứ không có thật, người ta bắt đầu an phận và mưu cầu sự bình yên. Đến khi điểm lại, đã quá lâu rồi ngôi nhà này không có bất kỳ một bữa tiệc nào, Giác cũng sợ liệu mình mở tiệc thì sẽ chẳng có mấy ai đến dự – không chỉ vợ chồng anh, thế giới ngoài kia cũng bận rộn khủng khiếp. Nỗi sợ ấy làm anh chần chừ, lỡ không ai đến thật, ai cũng cáo bận mà rút, sẽ chỉ còn tụi anh với những bàn tiệc trống trải, sự im lặng chán chường nối dài và lần đầu tiên anh phải đối diện với nó: sự cô đơn.

Rồi đến một ngày nọ Thuỷ bỗng dưng nảy ra ý tưởng rằng ngôi nhà này cần một bữa tiệc nho nhỏ, con bé Nhiên vừa kết thúc năm học với thành tích rất tốt, cũng gần đến sinh nhật nó, nên đây có thể là một dịp để chúng ta làm gì đó cho con bé, anh cũng đồng ý với chị. Nhưng mọi thứ cứ thế trôi đi với trăm ngàn những kế hoạch, trăm ngàn những “cố qua khúc này”, “hẵng qua giai đoạn này đã”, “sắp xong rồi”, “đang căng lắm, vài ngày nữa đi” và vân vân vô số lần bị dời lại, bị gác lại. Đùng một phát, Covid bùng lên và tất cả bị nhốt yên một chỗ, chẳng còn bữa tiệc nào nữa, chẳng còn cuộc gặp mặt nào nữa, chẳng còn những dự định tề tựu hay những niềm vui ngắn ngủi nào nữa. Bây giờ muốn tổ chức một bữa tiệc thì sẽ phải tổ chức qua các thiết bị kết nối, nhìn nhau qua những ô vuông. Một bữa tiệc là ước mơ viển vông hơn bao giờ hết: trời ạ, chúng ta đã đi đến nước muốn gặp nhau thôi cũng không thể gặp được, đây là thế giới mà tất cả chúng ta đã lựa chọn hay sao?

Sau đó nữa, Nhiên phải dọn vào ở trong khu cách ly, rồi anh và Thuỷ chỉ nhận được thông báo con mình đã mất trong đấy. Cuối cùng là một hũ tro được gửi về. Khi dịch có dấu hiệu bớt lại, hai vợ chồng Giác đem cái hũ đi chôn. Kể từ lúc con bé Nhiên bước vào khu cách ly, anh chị chưa bao giờ gặp lại nó nữa, gặp lại đống tro thì không đủ là nó.

Phải, đây chính là thế giới mà tất cả chúng ta đã chọn!

Giác đã dằn vặt mãi về bữa tiệc đã không thể diễn ra ấy, lẽ ra nó có thể diễn ra, đó có thể là lần cuối trước khi dịch bệnh bùng phát để mọi người có một buổi gặp mặt đông đủ. Nhưng đâu ai có thể biết rằng lần nào là lần cuối, đâu ai đoán ra được viễn cảnh này, đâu ai biết được chuyện hôm nay sẽ xảy ra, vì thế mà anh đã bỏ lỡ vô số cơ hội. Bây giờ có tiếc nuối cũng bằng thừa, không cần tiếc nuối nữa!

Đã mấy hôm Giác không lên mạng cập nhật tình hình dịch bệnh, nếu có gì quan trọng thì mọi người sẽ báo nhau ngay lập tức nên anh cảm thấy mình cũng không cần theo dõi sát sao làm gì. Nhìn những thông số khủng khiếp ấy làm anh toát mồ hôi hột, quá nhiều người giống anh, quá nhiều mất mát mà cách duy nhất chúng ta có thể làm là cố gắng đừng biết gì đến chúng. Anh cũng hiểu lý do vì sao thời sự không cập nhật tin tức về số ca mắc bệnh, nó kéo trì chúng ta xuống, nó không còn giá trị cảnh báo người dân như những buổi đầu nữa, tình hình hiện tại chẳng cần những lời cảnh báo. Nếu ai muốn biết thì cứ tra cứu là ra, còn ai không muốn biết thì cũng không sợ mình vô tình nhìn thấy.

Bữa tiệc ấy – nếu nó diễn ra – khả năng cao sẽ có sự tham gia của Hằng và Linh, hai người bạn của vợ chồng anh. Có thể còn có một số người bạn khác, một số đồng nghiệp của cả hai. Còn những học sinh của Thuỷ và những sinh viên của Giác nữa, dàn “đệ tử” của cả hai. Sang nữa, dù thằng bé khi ấy chỉ là một sinh viên rất bình thường và chưa thật sự hợp tác thân thiết với anh như bây giờ, nhưng anh vẫn sẽ tính vào – quên mất, một lát anh phải nhắn cho thằng bé để báo là mình đang đọc file truyện ngắn nó gửi. Bạn bè của Nhiên nữa, Nhiên là một cô bé có nhiều bạn, những đứa nhóc sẽ đến chật kín trong nhà cho xem. Giác đột nhiên bối rối, nếu bữa tiệc ấy được diễn ra, chắc anh sẽ phải chia ngôi nhà mình ra thành từng khu, dành cho từng đối tượng đến dự, dù sao thì bạn bè của vợ chồng anh đâu thể trò chuyện được với bạn bè của Nhiên, cả đám học sinh sinh viên cũng không thể nói chuyện với hai đám trên. Đó chính là trách nhiệm của một chủ nhà chăng: xoay vòng với từng cụm khách mời, đảm bảo họ thoải mái trong một bữa tiệc mà có nhiều người không quen biết nhau trước đó, để mọi thứ diễn ra thuận lợi đòi hỏi sự quán xuyến thật tốt của chủ tiệc, để một cỗ máy lớn như thế vận hành không vấp váp và đảm bảo “vui lòng khách đến vừa lòng khách đi” chắc chắn cần rất nhiều sự đầu tư tâm sức, tất cả đều phải dựa vào năng lực của gia đình anh. Nhưng Giác nghĩ, gia đình anh sẽ làm tốt thôi, ba người bọn anh đều là những người quản giao, thân thiện và biết cách điều hoà mọi thứ trong cuộc sống. Tụi anh sẽ là những người chủ nhà tốt và chắc chắn những cụm khách mời ấy sẽ hài lòng, thoải mái và vui vẻ, họ sẽ không cảm thấy phí thời gian khi đến đây, họ sẽ cảm thấy, giữa quá nhiều đầu việc giết chết mọi thời gian sống của con người hiện đại, họ vẫn chi ra chút thời gian để đến dự và thấy quyết định ấy hoàn toàn đúng đắn. Giác chắc chắn như thế, miễn là bữa tiệc có thể diễn ra, nhưng đáng tiếc là nó đã không diễn ra, và sẽ chẳng còn bữa tiệc nào diễn ra nữa. Ngôi nhà này, hay thế giới này, đã bị đông cứng trong trạng thái hoá đá vĩnh viễn.

Anh đem bát cháo của vợ đặt vào bồn rửa và xả nước. Ít nhất thì Thuỷ đã ăn sạch sành sanh, chứng tỏ anh cũng không nấu nướng vụng về lắm – dù chỉ đổ nước sôi vào cháo gói thì cũng chẳng thể gọi là nấu nướng gì. Anh rửa bát cháo và bát đĩa mình dùng khi nãy. Anh bắt đầu có thói quen ăn cái gì xong là rửa ngay lập tức. Nhà anh hồi trước đều để bát đĩa và dụng cụ nấu nướng đến khi chất đống thật nhiều rồi mới rửa một lượt, giờ nghĩ lại anh chẳng biết tại sao gia đình mình lại chọn cách làm đó, có lẽ chỉ đơn giản vì lười chia ra nhiều đợt rửa thôi. Song, như vậy thật bẩn, những bát đĩa cũ sẽ bị vết bẩn dính cứng vào, khô rốc lại, rất khó rửa sạch được, rửa ngay sau khi dùng vẫn là cách tốt nhất. Vả lại, anh không muốn điều ấy lặp lại với thế hệ của mình, anh muốn làm một người lớn xuất sắc để Nhiên khi lớn lên sẽ không có tật xấu nào ngáng đường con bé, đặc biệt là tật trì hoãn. Tật trì hoãn thật đáng sợ, đã có một thời gian dài anh chìm sâu vào nó, đến khi Linh xuất hiện và chỉ ra cho anh thấy, anh học tập thói quen đụng gì thì làm ngay của Linh, sau đó mới bắt đầu cải thiện được.

Bây giờ thì không cần nữa, Nhiên sẽ vĩnh viễn là một cô bé, vĩnh viễn được hoá thạch trong những bức ảnh và trong ký ức của nhân loại, hoặc ít nhất là của anh. Nhiên sẽ không bao giờ lớn lên, không trở thành một người lớn với những tật xấu hay những thất vọng về thế giới này, nó sẽ không phải thất vọng, không phải vỡ mộng bẽ bàng, không phải đối mặt với những áp lực của một thế giới đã bị nguyền rủa. Giác không nghĩ việc Nhiên mất là tốt (sao mà tốt được) nhưng để nói là xấu thì anh cũng chẳng nỡ, không có gì xấu xa cả, thế giới này rất xấu xa nhưng không phải tất cả đều xấu xa. Anh bắt gặp những con bọ rùa bò trên giá kê bát đĩa, vậy là chúng đã thành công bò từ ngoài bờ rào vào trong đây (đúng không, so với anh thì chúng không khác gì những chiến binh). Anh nhìn chúng. Nước chảy từ chiếc bát, nhỏ xuống đất. Ba bốn con bọ di chuyển chậm chạp dọc theo những thanh kim loại đan vào nhau, như đang khám phá thế giới sắt lạnh của thép. Chúng quá nhỏ còn thế giới này quá to, ngay cả đối với Giác thì thế giới này cũng quá to, anh đứng đây ngắm chúng trong một thế giới quá to, sẽ không ai biết anh đứng đây và nhìn chúng. Khoảnh khắc này sẽ vĩnh viễn biến thành hư vô, chẳng ai biết nó có tồn tại cả. Sự vô nghĩa khủng khiếp của một thế giới quá to và bản thân quá nhỏ làm Giác rùng mình.

Đám bọ rùa làm Giác nhẹ nhõm, bọ rùa là một lựa chọn tốt, chúng gây hại cho một số hoa màu nhưng với con người thì rất an toàn. Nhìn chúng bò nối đuôi nhau, Giác yên tâm hơn là nhìn thấy bất kỳ loài côn trùng hay động vật nào khác. Tiếng chó sủa từ nhà hàng xóm dội vào. Nếu động vật chết ở thời điểm này, chủ của chúng sẽ không thể đem chúng ra thú y, chúng sẽ phải chịu chết vì mạng người quan trọng hơn, bước ra đường là không được phép. Giác luôn tự hỏi tại sao con người lại quan trọng đến thế, hay con người cũng quá tự cao, tự cho bản thân là quan trọng nhất?

Anh dứt khỏi những con bọ, gác bát đĩa sạch lên giá. Anh lại nghe thấy tiếng chó sủa xa xa, như đệm vào sự yên tĩnh khủng khiếp. Lẽ ra Giác nên bật một bài nhạc nào đó và để nó tự động chạy trong lúc mình làm việc, nhưng có nhiều lý do để anh không làm vậy, lý do lớn nhất là nhạc làm anh nhức đầu, thứ nữa là anh cảm thấy việc khuấy động không gian bằng những âm thanh phát từ những thiết bị vô cảm thật đáng sợ. Vả lại, thế giới này đâu hẳn là bặt căm tiếng động, nó vẫn có và luôn có, Giác phải nhớ rõ.

Khi quay lại bàn làm việc, Giác nhận ra ly cà phê của mình đã tan sạch, anh chưa uống được bao nhiêu cả, mỗi khi tập trung anh đều quên mất ly nước đang uống vì đôi khi anh chỉ cần chút mùi cà phê để ngửi thôi là đã đủ, còn uống hay không là phụ. Trên màn hình máy tính xách tay vẫn là giao diện thông tin của thiền sư Bản Tịnh, anh định tắt đi nhưng rồi chợt nhận ra một điều kỳ lạ: hình như năm sinh năm mất của người đồ đệ này có gì đó không đúng lắm. Anh mở một cửa sổ tìm kiếm khác, tra lại thông tin của sư Mãn Giác.

Mãn Giác, sinh năm 1052, mất năm 1096.

Bản Tịnh, sinh năm 1100, mất năm 1176.

Đối chiếu kỹ lưỡng xong, Giác mới nhận ra điểm nghi vấn mấu chốt: hai thầy trò này không sống cùng thời với nhau. Họ không thể gặp nhau được, người này mất rồi mới đến người kia ra đời. Giác phải xem lại mấy lượt để chắc chắn.

“Sao lại thế được nhỉ?” Anh tự hỏi, tiếp tục tra cứu chéo nhiều nguồn thông tin khác, có vẻ chuyện gì cũng có thể sai, nhưng chuyện năm sinh năm mất này thì khó mà xảy ra sai sót, tất cả các nguồn thông tin đều thống nhất với nhau cả. Sao lại thế nhỉ? Giác chợt nhận ra lý do khiến truyện ngắn này bị loại (bên cạnh lý do dung lượng quá lớn), nó đã sai về mặt thông tin. Vấn đề là Giác không nghĩ tác giả đã tốn công viết ra một số lượng chữ thế này mà lại để sai kiến thức cơ bản như thế, anh phải tranh thủ đọc hết, chắc chắn phần còn lại sẽ có giải thích. Đây chỉ là một thủ pháp thôi, tác phẩm hư cấu có quyền kể những câu chuyện hư cấu, miễn sao là độc giả khi đọc có thể nhận ra lý do người viết làm vậy.

Phán đoán của Giác đã đúng.

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout