Mắt



Mắt


Bản Tịnh tìm được Mãn Giác đang đứng trong vườn ngắm cây bạch mai. Ông đứng ở xa nhìn thầy, chưa muốn phá hỏng không khí vội, ít nhất thì Mãn Giác cũng đã khoác áo bông đầy đủ. Chỉ bệnh mấy ngày mà cơ thể thầy nay đã héo hon hẳn so với trước. Bản Tịnh như có thể nhìn rõ quá trình lớp da thầy hóp vào qua từng ngày, từng ngày. Biết là bệnh tật buộc thầy phải ăn uống kiêng khem, thậm chí có thể xem là chẳng ăn được bao nhiêu, Bản Tịnh đã cố hết sức chăm nom song bản thân sư đâu thể nào chống lại quy luật của thời gian.

Nếu có ông Phàm ở đây, có lẽ Bản Tịnh sẽ nhờ ông ta vẽ lại Mãn Giác trong khoảnh khắc trước mắt, khi thầy ngẩng đầu ngắm hoa (phải ngắm hoa không nhỉ) trong khung cảnh lạnh lẽo của những ngày cuối đông đầu xuân. Người đời sau có thể nhìn thấy được cảnh này, hơn là cảnh thầy ngồi toạ thiền – quá hoàn hảo, quá thông tuệ, quá xa xôi. Để người ta còn biết đến thầy với những gì là thầy, hơn là những gì người ta muốn thầy trở thành.

Ông Phàm mắc một cái tật, đó là không thờ được những bức hoạ tiên Phật do chính mình vẽ. Hồi còn trẻ ông Phàm đã từng thử hoạ chân dung Bồ tát rồi dùng luôn tác phẩm ấy để thờ, ông đã vẽ rất tâm huyết và thành phẩm thật là xuất sắc. Song vấn đề là người hoạ sư không tài nào thờ được bức tranh vẽ Bồ tát của mình. Mỗi lần đứng trước tạo vật ấy, ông ta không thể nảy sinh lòng thờ tự, hay mong muốn thắp hương cúng bái gì nó cả. Thậm chí, Nam mô a di đà Phật, càng nhìn ngắm nó ông ta càng thấy bức tranh dần lộ ra những khuyết điểm mà ban đầu ông không hề phát hiện. Cuối cùng, ông Phàm phải đi mua tranh Phật của hoạ sư khác để thờ. Ông ta kể lại chuyện này với Mãn Giác trong một lần tâm sự bên bàn trà, Bản Tịnh lắng nghe và có lẽ hơn cả thầy mình, Bản Tịnh cực kỳ thấu hiểu cảm giác của ông Phàm. Chính sư đôi khi cũng muốn giữ khoảng cách thật xa với sư phụ, để thầy không tồn tại sống động đến thế, được vậy có lẽ Bản Tịnh đã ngưỡng vọng và bớt khắt khe với Mãn Giác hơn chăng?

Phút chốc, Bản Tịnh ngỡ như Mãn Giác sẽ dần dần tan biến, cưỡi mây phi thăng lên trời, hay dần dần mờ nhoè như một cái bóng in dưới mặt nước bị sóng đánh tan tác. Vội vàng  dù biết làm gì có chuyện ai đó đang sống sờ sờ lại tan biến thành hư vô trừ khi chính mình bị điên, Bản Tịnh bước đến chỗ Mãn Giác, gọi:

“Thầy ơi!”

Mãn Giác có vẻ đã nghe nhưng không vội đáp. Người hạ tầm mắt xuống, nhìn qua đồ đệ:

“Đã có đồ ăn sáng chưa?”

“Thầy muốn ăn gì thì nhà bếp làm đó, không cần phải bỏ công đến ăn chung với mọi người nữa. Thầy cứ ở phòng tịnh dưỡng và ăn những gì thầy thích. Cứ nói với dì bếp và thằng nhóc phụ việc.” Bản Tịnh trả lời, đoạn nhớ ra những cái bánh bao, sư nói thêm, “Mà con vừa ghé qua bếp nói chuyện với họ. Họ đang làm bánh bao đấy, nhiều lắm. Thầy có khách ạ?”

“Phải, ta có khách, nhiều khách.”

“Sao con không được cho biết gì nhỉ?” Bản Tịnh nói và chắc chắn đối phương biết là ông đang ngầm trách.

Khuôn miệng Mãn Giác giãn ra, tạo thành một nụ cười, như sự khó chịu của Bản Tịnh đã khiến sư thích thú, “Tất nhiên là con không biết, con mà biết thì hôm nay thầy sẽ không có người khách nào cả!”

Bản Tịnh bối rối, “Nam mô a di đà Phật, thầy nói oan con quá! Con đâu có dám quản gì chuyện thầy tiếp đãi bạn bè khách khứa.”

“Đã đành, nhưng lượt khách hôm nay không phải đến chơi, không chỉ là một nhúm nhỏ, mà là tất cả những người thầy từng gặp, tất cả đồng môn và đệ tử của thầy.”

Giờ thì Bản Tịnh hốt hoảng thật sự, ở nơi này, bên dưới những cành mai gầy nhẵn, còi cọc, đang nhú mầm xanh và không khí lạnh cứ chực sát vào da thịt. Ông ôm đầu, rối rít bảo:

“Vậy thì càng phải báo cho con biết. Làm sao con chuẩn bị tiếp đãi chừng ấy người khi đến bây giờ thầy mới chịu tiết lộ? Nam mô… rồi còn cả bàn tiệc, trà nước, đồ chay, phòng ốc. Ôi, thầy à, không thể tiếp đãi không chúng anh em đồng đạo được, người ta phải đi biết bao xa mới đến được chùa mình!”

Mãn Giác lắc đầu và, đúng không, thầy rất thích thú khi để Bản Tịnh rơi vào những rắc rối do chính người đồ đệ tự mình tạo ra, “Thầy đã chuẩn bị hết rồi. Con chỉ cần tham gia và chào hỏi mọi người thôi.”

“Thầy đã chuẩn bị?”

“Bản Tịnh à, con có nghĩ là bản thân đang căng thẳng quá không?”

“Thưa thầy…” Bản Tịnh chớm muốn quỳ xuống vì nghĩ lời ấy là đang trách mình. Song lén nhìn mặt thầy, ông biết là không phải, bèn chỉ cúi người đáp, “Con là học trò của thầy, là người được cả dòng phái đặt hy vọng.”

“Thầy biết.”

“Đây là trách nhiệm của con, phải quán xuyến tất cả mọi thứ để không xảy ra sai sót, mỗi đạo đều phải làm tốt cả: đạo sư-đồ, đạo huynh-đệ, đạo chủ-khách, đạo trên-dưới, đạo tu hành, đạo học vấn…”

“Nhưng hôm nay con không cần lo nữa, thầy đã lo hết rồi, cắt đặt hết rồi. Ta không muốn phiền đến con, con còn chưa đủ phiền muộn hay sao?” Mãn Giác lại không nhìn đồ đệ, chỉ đánh mắt lên những cành cây đan bện như những nét mực hí hoáy chồng chéo của trẻ con.

Bản Tịnh thở dài, “Có phải đó là lý do vì sao suốt mấy hôm nay thầy cứ sa sút dần mòn không ạ? Thầy đã lo một chuyện quá sức mình rồi. Thật không đáng chút nào!”

Ông thấy tự giận mình hơn là giận Mãn Giác. Bản Tịnh tưởng tượng thầy đã chầm chậm lo toan từng thứ cho một cuộc tập hợp quá lớn. Làm chủ nhà là một việc cực kỳ khó, tốn rất nhiều tâm sức, lễ lạc luôn luôn là dịp vui song cũng bào sức con người khủng khiếp. Mãn Giác cứ lén lút lo toan ngần ấy việc, chắc cũng phải từ cả tháng nay chứ không ít, chẳng trách mà nay thầy đã thành bộ dạng thế này. Bản Tịnh xót xa và thấy phần lỗi thuộc về mình, chính ông phải là người động tay làm những việc ấy mới đúng.

Mãn Giác ung dung nói, “Trước khi xuôi tay thì con người luôn bộc phát sức mạnh phi thường, người ta gọi đó là khoảnh khắc hồi quang phản chiếu!”

Dù thái độ thầy nói có ung dung cách mấy, Bản Tịnh nghe xong cũng điếng cả người, cộng thêm những làn gió buốt cắt da, khiến ông run bắn lên.

“Thầy cứ doạ con như thế…”

“Sao con cứ sợ hãi việc một người phải chết nhỉ? Quy luật sinh, lão, bệnh, tử chúng ta còn lạ gì. Con đã nghe giáo huấn lẽ sinh diệt suốt cả cuộc đời mình rồi. Thầy còn đang tự hỏi, con có thực sự thấm chút gì của Kinh sách không?”

Lần này, Bản Tịnh vội vàng quỳ xuống thật, líu ríu đáp, mặt không dám ngẩng lên, “Con ngu muội quá, thầy ơi! Nói thì được nhưng làm thì thật khó! Nói với người khác rằng đừng đau khổ, đừng sợ hãi, đừng lo lắng thì thật dễ. Nhưng khi đến lượt mình phải đứng trước những điều ấy, con mới chợt nhận ra mình chỉ là con người. Con xin bị thầy trách phạt!”

“Ta cũng sợ!”

Tiếng Mãn Giác buông chậm rãi nhưng đủ làm Bản Tịnh giật mình như tiếng đập của bẫy chuột, ngỡ như đó là tiếng gió rít hoà với tiếng chim bắt sâu, chứ không phải phát ra từ Mãn Giác. Bởi vì những lời ấy mà xuất phát từ Mãn Giác thì thật hoang đường biết bao. Nếu Bản Tịnh đem chuyện này đi kể, chắc hẳn cả thiên hạ này sẽ không ai tin lời ông nói. Sao một người như Mãn Giác, người đã thấu triệt lẽ sinh tử, xem sống chết chỉ là một, có cuộc đời tu tập tham thiền ngộ đạo đến tận cùng, được bao nhiêu chúng tăng yêu quý truy tầm học hỏi, rồi còn viết ra một bài kệ như “Cáo tật thị chúng”, lại thốt lên rằng bản thân mình sợ chết? Sư rùng mình, không phải, chắc là ma quỷ nói đấy, tà tâm của chính ông đang nói đấy chứ chẳng phải thầy đâu. Ông chỉ đang nghe thấy tà tâm của chính mình.

“Thầy…”

“Ừ phải, ta cũng rất sợ, sao phải cố chứng minh rằng mình không sợ? Dù biết sinh rồi sẽ diệt, cái chết là sự chuyển hoá, hoa tàn rồi nở, trời đất tuần hoàn, nhưng cái nỗi sợ bản năng trước cái chết thì vẫn luôn tồn tại. Chính vì cố tỏ ra mình không sợ, đắp điếm bằng những lời cao siêu để chứng tỏ một điều mình không có, mới là ngu muội.”

Bản Tịnh gật đầu, “Con cũng nghĩ vậy! Con biết thầy viết bài kệ kia không phải để bảo rằng cái chết không đáng sợ, mà ý thầy cái chết không phải là kết thúc.”

“Thấu suốt không phải là không sợ…” Mãn Giác dời mắt khỏi tán cây trơ trụi, đoạn quay người rời khỏi sân.

“Thấu suốt là dẫu trong lòng có sợ hãi cách mấy, chúng ta vẫn chọn đối diện, bước về phía trước và tận hưởng cuộc sống.” Bản Tịnh tiếp lời thầy.

Mãn Giác đến vỗ vỗ vai người học trò, dấu hiệu bảo Bản Tịnh đứng lên, mặt đất lạnh lẽo. Bản Tịnh phủi đất trên vạt áo tràng, đứng dậy và ngước nhìn bầu trời. Ngày hôm nay không đủ để gọi là trong xanh, nhưng đó là bởi vì đang nhằm mùa đông nên phải thế, Bản Tịnh vẫn tin thời tiết cả ngày sẽ rất tốt, khách đến chùa sẽ không gặp trở ngại gì. Ông nhìn về phía những cành mai, như hàng ngàn cánh tay Bồ tát vươn khắp chung quanh, chạm đến bầu trời. Đã có vài nụ hoa bạch mai hé nở, đa phần chỉ là búp non. Chỉ có duy nhất một bông mai đang bung cánh toả tròn rạng rỡ, như hạt ngọc điểm xuyết trên món trang sức vương giả mà cả đời ông sẽ không bao giờ được phép chạm vào để giữ thân không lạc chốn tục luỵ hào nhoáng.

Chùa rất đông người, ấy thế mà chẳng ai báo cho Bản Tịnh biết về kế hoạch của sư phụ, có lẽ vì họ kín miệng quá, mà ông cũng không nhận ra gì để gặng hỏi, hoặc cũng có thể đơn giản là họ mặc định Bản Tịnh phải biết rồi. Đúng vậy, ông có trách nhiệm phải luôn luôn biết những điều như thế, niềm tin ấy tạo nên sự yên tâm cho tất cả mọi người.

Ông vội cun cút theo thầy, đỡ lấy tay và đưa thầy về buồng. Gió lạnh lại dậy lên, khiến quả chuông treo trên xà nhà kêu đinh đang. Bản Tịnh không ngờ Mãn Giác lại có đủ sức khoẻ đi một mình ra tận vườn, rồi còn chịu được cái lạnh trĩu nặng của buổi sáng để đứng ngắm hoa lâu đến thế. Nếu ông không xuất hiện, có lẽ thầy còn chẳng chịu vào, thầy sẽ ở đó và trở thành một tượng nhân chăng, người ta sẽ vĩnh viễn thờ thầy trong tư thế ấy: một tay chắp sau lưng, một tay lần tràng hạt và đầu ngước lên nhìn những nụ hoa mai, dù không chắc với đôi mắt mờ căm của mình thì Người có thể nhìn thấy gì hay không, hay tất cả chỉ là một cảm giác quờ quạng trong cái thinh không mịt mùng. Phải, Bản Tịnh không tin Mãn Giác có thể nhìn đủ rõ để mà ngắm mai, bởi vì ngay lúc này khi được ông dìu bước, thầy rõ ràng ở thầy đang là dáng vẻ chập chững sơ sẩy của một người mù. Song, một câu hỏi khác hiện lên trong đầu: nếu thầy không ngắm mai thì thầy ngắm gì? Có lẽ Mãn Giác đang ngắm chính mình, trong những vần xoay của bốn mùa, của tạo hoá, của nở tàn, của sinh diệt và của cả những hạnh phúc cùng nỗi sợ đời thầy.

“Tuổi già vất vả thật đấy.” Mãn Giác nói, “Ta không thể tưởng tượng những con người bằng tuổi ta nhưng không được may mắn như ta đang phải trải qua tuổi già kiểu gì.”

“Thế gian là một trải nghiệm, con nghĩ đau đớn cũng là một trải nghiệm.” Đúng không? Bản Tịnh tự thấy câu trả lời này của mình thật thiếu bao dung và không có tinh thần cố gắng thấu hiểu.

“Hoặc không.” Đối phương khẽ lắc đầu, “Có thể người ta đau đớn chẳng để làm gì.”

“Phải có một ý nghĩa nào đó từ những cơn đau đớn chứ, con người không thể cứ trải qua đau đớn mà không ngộ ra được gì hay không được gợi mở ra điều gì sao, thầy?”

“Thầy e là như vậy, đáng tiếc là rất có thể như vậy. Đau đớn chỉ là đau đớn mà thôi!”

Nghe thật buồn, song Bản Tịnh không biết phản bác thế nào. Tuổi già cũng đang ở phía trước chờ đợi ông, thật ra ông cũng có thể xem là một lão già rồi, chỉ thiếu những cơn đau do tuổi tác mang lại giống Mãn Giác mà thôi. Bản Tịnh rùng mình, trời ạ, mình cũng đã già!

Đột nhiên, Bản Tịnh phát hiện trên vai Mãn Giác, chỗ một lớp áo bông phồng lên, trên tràng hạt xoắn vòng và giữa những hạt bồ đề nhăn nheo những đường vân ám gợi, một chú bọ rùa đang bò. Viên tròn đo đỏ ấy lần mò từ hạt bồ đề này đến hạt bồ đề kia, như một người đang lần từng viên chuỗi khi tụng niệm. Con bọ quá nhỏ, phải đến gần kề hết mức như Bản Tịnh bây giờ mới để ý thấy được. Có lẽ con bọ đã bò từ tủ đựng đồ lề thư pháp, lan khắp phòng và bò lên cả người Mãn Giác. Tưởng tượng hình ảnh các loài sâu bọ bò lung tung trên da thịt con người làm Bản Tịnh thấy hãi, cứ như báo hiệu của cái chết vậy, chỉ có xác chết mới thu hút giòi bọ. Song, Bản Tịnh xua ngay ý nghĩ ấy đi, người ta vẫn thường hay bảo gặp được côn trùng nhỏ là điềm lành. Ông để mặc con bọ trên tràng hạt, chỉ chú tâm dìu thầy nằm lên giường.

“Con sẽ đi lấy đồ ăn cho thầy, để xem hôm nay bếp chuẩn bị gì!”

“Còn con đã ăn chưa?” Sư Mãn Giác hỏi lại ông như thể không chỉ mỗi ông có quyền lo lắng cho người khác.

“Sẵn tiện con cũng tranh thủ ăn luôn.” Bản Tịnh trả lời rồi cất bước rời đi.

“Đừng để mình vất vả quá. Tu tập, hành thiền chưa bao giờ là một việc vất vả.”

Sau đó là tiếng Bản Tịnh vâng dạ rồi rời đi. Mãn Giác thở dài, nghiêng đầu nhìn một lượt phòng ngủ, xong lại ngó qua thư phòng bên cạnh, ở đó có một bài kệ đang nằm yên. Dù không thấy gì nhưng sư vẫn cảm nhận được tất cả. Không gian này đã quá quen thuộc với ông.

Không chỉ những người khác, chính Mãn Giác cũng tự hỏi tại sao mình lại ít sáng tác đến thế, trong khi ai cũng hy vọng sư sẽ nói nhiều hơn, đàm đạo nhiều hơn, viết xuống những suy nghĩ trong đầu nhiều hơn. Song, có lẽ bây giờ, chỉ cần một bài kệ 6 câu ấy là đủ. Nhưng đủ cho điều gì mới được? Để cho mọi người có thể hiểu hết tất cả những gì Mãn Giác không nói. Chính ông đôi khi cũng muốn viết gì đó, tuy nhiên mỗi khi ngồi vào án thư, ông lại thấy ngôn từ cứ trượt khỏi mình và một cảm giác gì như một cơn lười biếng cứ bủa vây ông (ông? Lười biếng? Kỳ quặc thật!) khiến ông chẳng muốn làm nữa. Ngôn ngữ quá thô ráp, khó gọt giũa và bỗng nhiên Mãn Giác tin rằng, ngôn ngữ cũng giống như những viên ngọc bảo – chúng cũng lung linh, cần được gọt giũa cho nên hình nên dạng và ngày một sáng bóng – trong khi đó người tu hành thì lại không nên tham luyến ngọc ngà châu báu. Đúng không, ngôn ngữ cũng là cái đẹp và là cái vỏ trang sức của một thứ gì đó khác, nên nếu Mãn Giác chấp vào ngôn ngữ, cố lôi cái thần diệu từ nơi khác để đưa vào câu chữ của mình, thì liệu có phải ông cũng đang là một người ít nhiều phù phiếm?

Bỗng nhiên, từ đáy sâu của một ký ức tưởng chừng đã bị lãng quên, sư Mãn Giác nhìn thấy một cột khói bảng lảng trên một mái nhà tranh, tượng trưng cho hạnh phúc bình dị của một gia đình miền thôn dã thuần khiết và khuất nẻo trong thế giới nhỏ bé, trong tận cùng lịch sử và tận cùng vĩnh cửu, cứ tan đi rồi hiện ra giữa các triều đại và binh biến ba đào.

Thật kỳ lạ, tưởng như đã một vạn năm trôi qua kể từ những ngày đó rồi. Sao sư lại bỗng nhiên nhớ đến hai cụ thân sinh và ngôi nhà cũ ở quê ngoại thế nhỉ?

⬩⬩⬩

Khi Bản Tịnh quay lại, Mãn Giác đang ngồi tựa vào gối, mắt nhắm hờ. Ông còn chẳng rõ thầy đang nhắm mắt hay mở mắt, đôi mắt của Mãn Giác thật khó đoán, mà dù mở hay nhắm thì thầy cũng chẳng còn thấy gì nữa rồi nên không quan trọng lắm. Người đồ đệ đặt bát cháo nóng lên bàn (chắc hàng trăm nghìn năm sau con người vẫn sẽ luôn ăn cháo khi bệnh, một món ăn hoàn hảo quá mức), gọi thầy:

“Thầy à, đã có vài vị khách đến rồi đấy. Thầy có thể đứng dậy để đón tiếp họ không, nếu cần con sẽ bảo họ vào. Bây giờ họ đang ở gian khách, con cắt đặt các sư đón tiếp cả rồi!”

“Đến sớm thật đấy!”

“Thầy à, lời mời của thầy đối với người khác rất quan trọng, miễn là chính thầy mời thì dù đường sá xa xôi, khổ cực thế nào người ta cũng sẽ đến thăm. Họ đã lên đường từ hai ba hôm trước rồi đấy!”

Bản Tịnh kê ghế ngồi gần giường. Ông thổi cháo cho nguội rồi đưa thìa cháo kề miệng thầy. Mãn Giác ăn chậm rãi.

“Mùi gạo thơm quá!” Mãn Giác nói.

Bản Tịnh nghĩ, sao con người lại khó hạnh phúc đến thế? Chỉ cần một bát cháo nóng vào những ngày cuối năm là đã đủ, ông chỉ cần ngồi đây hầu thầy cũng đã đủ. Bản Tịnh bỗng nhiên hổ thẹn khi thấy bản thân đạt được hạnh phúc quá dễ dàng, như thể ông đã tiêu pha hết hạnh phúc của những người khác. Chính ông đã lỡ gom hạnh phúc về mình quá nhiều nên thế gian mới thành ra khan hiếm hạnh phúc?

Hầu sư phụ ăn sáng xong, Bản Tịnh cáo lui:

“Được rồi, thầy cứ nghỉ ngơi một chút, con ra tiếp khách đã. Có gì cần thì thầy cứ gọi, bên ngoài luôn luôn có người nghe tiếng thầy đấy ạ. Chắc giờ này lại có thêm khách đến rồi.”

“Con đoán thử, mọi người sẽ nghĩ gì khi ta đứng trước họ và đọc bài kệ ấy?” Vẫn nhắm nghiền mắt, người trên giường hỏi.

“Cáo tật thị chúng”. Bản Tịnh khó mà tưởng tượng ra vẻ mặt của chúng tăng, vì xưa nay Mãn Giác có bao giờ viết một bài kệ như thế và đọc trước mọi người như một buổi thuyết pháp đâu. Thầy chỉ luôn cố diễn đạt, nhưng không cố để tô điểm ý kiến bằng những câu từ sâu sắc. Nhưng dù sao thì đó cũng là một bài kệ hay và ấn tượng.

“Chắc mọi người sẽ thích lắm.” Bản Tịnh trả lời và tự giật mình với câu trả lời ấy. Thích? Ông đã lỡ dùng từ thật kỳ quặc!

“Họ thích thì tốt quá!” Mãn Giác gật gù.

Bản Tịnh bưng bát cháo lưng một nửa, rời khỏi phòng. Bên ngoài, ánh nắng ngày mới lan ra tràn ngập, ấm áp như một hơi thở nhuốm đầy sự sống.

Sư ước gì mình không sống cùng thời đại với Mãn Giác, có lẽ khi đó ông sẽ là một người đời sau chẳng biết gì mà chỉ biết nhìn bức tranh vẽ thầy mình, cung kính và ngưỡng vọng thầy như một vị thánh nhân giữa chúng sinh mù mịt, chứ không phải là một ông lão vừa ăn được nửa bát cháo trong một ngày lạnh lẽo nhưng đẹp trời.

Giống như sự say mê đụng chạm xin phước của các Phật tử làm bạc màu sơn của những tượng thờ, sự gần kề làm tiêu tan những thần tượng.

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout