Mắt
Thật dễ chịu quá, mình hoàn toàn có thể chết ở đây, chỉ bởi vì nó quá dễ chịu. Mình không cần đi đến chỗ nào khác. Mãn Giác thiền sư ngả lưng tựa vào thành giường, nửa nằm nửa ngồi. Tấm chăn dày phủ lên người ông. Sư hơi nghiêng đầu, chân co lại trong chăn, tay vò vò một hạt bồ đề trong chuỗi hạt dài trên cổ. Dường như cả thế gian đều đã chết như thế này: thoải mái và hoàn toàn tự tin để dấn bước vào một vùng đất xa lạ. Mãn Giác có thể ngồi đây vĩnh viễn, đến khi nào muốn đứng lên thì đứng. Cơ thể này của sư từng có một thời vạm vỡ. Người ta đã hiểu lầm về các thiền sư. Họ sống trong những kế hoạch sinh hoạt nghiêm ngặt, ăn uống lành mạnh, không đụng đến một giọt rượu hay những thứ gây tổn hại sức khoẻ, có lịch trình vận động, rèn luyện kỹ lưỡng. Những công việc nặng nhọc ở chùa đòi hỏi người ta phải có một sức dẻo dai bền bỉ. Với lối sống ấy, trông họ không khoẻ khoắn phúc hậu mới là chuyện lạ. Họ chỉ trông gầy gò, khắc khổ trên các bức hoạ.
Mãn Giác nhìn chính mình trên bức tranh treo tường, đối diện giường ngủ. Ông không nhìn thấy gì nhưng ông biết chỗ bức tranh ấy được treo lên, may mắn là ông cũng không bị mù trước khi bức tranh hoàn thành. Ông đã được ngắm nó lúc mắt vẫn còn sáng tỏ. Và sư nghĩ, thà rằng mình không thấy bức tranh còn hơn.
Không chỉ mỗi Bản Tịnh, chính ông cũng chẳng thể nhận ra bản thân trong tranh. Không phải nó đem đến cảm giác hoàn toàn lạ lẫm như thể Mãn Giác bị ông Phàm giao nhầm tranh của một đồng môn khác, mà là cảm giác như từ trước đến nay mình đã nhìn sai chính mình. Mãn Giác đã soi bản thân trong gương đồng, trong giếng nước, trong mặt ao không biết bao nhiêu lần, hàng ngày. Song phải đến khi được đức kim thượng gửi đến cho một hoạ sư để vẽ lại mình, Mãn Giác mới nhận ra từ trước đến nay ông chưa từng nhìn thấy bản thân. Thì ra ông trông như thế kia! Mãn Giác tự thấy ông khác xa với chính mình. Thậm chí sư còn nghĩ, nếu người ta không nói đó là tranh vẽ ông, biết đâu ông đã xin được đem hình tượng rạng ngời ấy đi thờ vì tưởng lầm đó là một vị Bồ tát.
Ông Phàm là một người không thể thờ được tác phẩm của mình vì đã lỡ quá thân cận, gần gũi với chúng. Có lẽ phần nào, Mãn Giác cũng muốn được như những bức tranh không thể thờ ấy – ông sẽ hoà nhập, gần gũi mọi người đến mức không ai thờ được. Song, có lẽ Mãn Giác không thể tan vào thế tục cho nổi, ông đã trở thành một hình ảnh xa diệu vợi và cần được bái vọng trong mắt chúng sinh.
Đã nhiều lần, Mãn Giác muốn từ bỏ. Những buổi sáng, trong khi ngồi nhàn nhã thưởng trà và ăn bánh quế hoa, sư đã nghĩ hay là mình không làm gì nữa hết, mình sẽ ngồi trên cái ghế này, bên cạnh bàn trà này vĩnh viễn, mình sẽ không ăn uống gì nữa (đúng không, việc ăn uống làm ông thấy thật kinh khủng, thật khó khăn), không làm bất cứ điều gì nữa, mà chỉ suy nghĩ thôi, lắng nghe thôi. Ông sẽ chỉ nhận mà không cần phải cho, chỉ nghe và suy nghĩ chứ không cần phải nói ra những suy nghĩ ấy. Việc nói chuyện cũng khiến sư mệt mỏi bã bời. Dù sao thì, đây cũng là dòng thiền Vô Ngôn Thông, Mãn Giác có quay mặt vào vách toạ thiền suốt đời, chẳng buồn nhìn đến ai, chắc cũng sẽ không ai trách. Song, cũng ngay khoảnh khắc nảy ra suy nghĩ ấy, Mãn Giác quyết định sẽ không làm thế, ông sẽ không từ bỏ.
Và, giống như vậy, ngay lúc này Mãn Giác cũng quyết định rằng mình vẫn chưa thể chết bây giờ. Sư chậm rãi lê người, đứng lên, dẫu hơi loạng choạng bước chân. Trong thế giới mờ đục, chỉ bằng cảm tính, Mãn Giác đã làm những điều phi thường (như viết kệ, Nam mô a di đà Phật, chính ông còn chẳng thể tin) mà bản thân cũng không biết vì sao một người già khú mù loà như mình lại có thể làm được.
⬩⬩⬩
Thầy sẽ tồn tại lâu hơn! – Bản Tịnh rùng mình nghĩ, giữa cuộc trà với các thiền khách và đồng đạo.
Sư Mãn Giác sẽ tồn tại lâu đến mức, khi Bản Tịnh và những khách khứa ngồi đây hôm nay đều đã chết và đã bị thế giới lãng quên, người ta vẫn sẽ nhớ đến thầy. Thậm chí bao triều đại trôi qua, nghìn năm nữa, người đời vẫn sẽ nhớ đến Mãn Giác. Bản Tịnh thừa biết mình sẽ không bao giờ được người ta nhớ đến. Ông có thể sẽ được ghi tên lại như một người nối tục Mãn Giác, một người đồ đệ, trong những thư tịch kiểm kê của dòng thiền. Song, cuộc đời ông cũng sẽ chỉ có bấy nhiêu đó thôi, còn Mãn Giác thì khác, Mãn Giác sẽ trở thành vĩnh cửu với thiên thu. Bản Tịnh sẽ không bao giờ được như sư phụ.
“Bạch thầy, chẳng hay dạo này sức khoẻ của trụ trì thế nào?” Một khách thiền năng tới lui Giáo Nguyên Tự hỏi.
“Thầy đã ốm yếu lắm rồi, chúng tôi đều đã chuẩn bị kỹ lưỡng hết cả.” Bản Tịnh đáp lời.
Một đồng đạo khác lâm li, “Không biết phải đợi bao nhiêu lâu nữa mới có một người như trụ trì. Thầy mà ra đi thì đúng là mất mát lớn quá!”
“Nào, sinh lão bệnh tử là chuyện thường tình, chẳng lẽ cứ sống mãi mà được à? Sư Mãn Giác cũng mãn thọ chứ có phải do tai kiếp gì đâu. Chúng ta nên mừng!” Một người khác gạt đi.
“Đã đành, nhưng chẳng biết thế hệ sau kế tục có nối dài được vinh hiển của dòng phái hay không.” Người ấy lại nói, song đột ngột nhận ra gì đó, bèn nhanh chóng trở người dậy trên ghế, “Ấy chết, tôi hồ đồ thật. Sư Bản Tịnh cũng rất giỏi, đúng không nào, ông là đồ đệ được một tay thầy nuôi dạy và truyền thụ mọi hiểu biết trong đời. Sao lại không tin tưởng ông cho được?”
Bản Tịnh khẽ lắc đầu, thở dài. Dù là cửa từ bi, nhưng vẫn không thiếu những cạnh tranh và nghịch ý. Cứ lâu lâu, một người nào đó sẽ vô tình quăng vào ông những lời mơ hồ bóng gió, chỉ bởi vì Mãn Giác đã chọn ông chứ không chọn ai khác. Mãn Giác đặt lòng tin ở ông, chuyện đó đã đành, nhưng ông có đặt lòng tin ở chính mình không, người khác có đặt lòng tin ở ông không, thì không thể nào rõ được.
Bản Tịnh đã nhìn thấy tất cả: những khi Mãn Giác buồn bã nhất, tuyệt vọng nhất, mệt mỏi nhất, thèm muốn chạy trốn nhất, tan vỡ nhất, hoang mang nhất, bất an nhất, lo lắng nhất, tầm thường nhất, vui vẻ nhất, hào hứng nhất, say đắm nhất và thoát tục nhất. Sao ông lại không yêu thầy cho được, khi đã nhìn thấy tất cả trạng thái ấy ở thầy, suốt bao nhiêu năm qua? Bản Tịnh giữ lại cho riêng bản thân những điều đó, chỉ chia sẻ với thế nhân một Mãn Giác hiền minh, đức độ và an nhiên. Chỉ có Bản Tịnh biết, Mãn Giác đã thành công và thất bại cùng một lúc (ông ngạc nhiên, hoá ra người ta có thể vừa thành công mà cũng vừa thất bại cùng một lúc?).
“Được rồi, nếu các thầy và các thí chủ đã dùng tiệc xong, mời mọi người đến giảng đường để gặp sư trụ trì.” Bản Tịnh đứng dậy nói to, “Thời gian chuẩn bị gấp gáp, nếu có chỗ nào tiếp đón không chu đáo, hy vọng các đồng đạo và các thí chủ bỏ quá cho. Mong quan khách dời bước theo chúng tôi!”
Ông cùng với các tăng ni dẫn bồ đoàn khách khứa đến giảng đường, sắp xếp chỗ ngồi từng người đâu ra đó, đảm bảo ai cũng yên vị và thoải mái. Đoạn, để khách lại cho các thầy khác, ông đảo ra gian nhà ở để gọi sư phụ.
Bấy giờ, Mãn Giác đã đứng dậy và đi đến bàn thư pháp. Sư nhìn vào thinh không, tay đặt lên mảnh giấy đã ráo mực từ lâu, sờ từng con chữ như thể chúng nổi lên giữa trang giấy. Bản Tịnh gọi:
“Thầy ơi, khách khứa đã yên vị hết rồi, thầy tranh thủ ra gặp họ, đừng để họ đợi lâu.”
Mãn Giác gật đầu, chậm rãi đứng dậy. Bản Tịnh vội bước đến đỡ tay thầy. Ông nhận ra một con bọ rùa đang bò trên những đường gấp nhăn nheo, rồi thoắt ẩn thoắt hiện lượn vòng trên những ngón tay gầy gò của sư phụ. Mãn Giác như thể không nhận ra, hoặc nhận ra nhưng cứ để cho con côn trùng cứ làm gì tuỳ thích.
“Hình như có nhiều bọ rùa trong phòng này thật. Hồi nãy thầy chạm lên bài kệ của mình, cứ đưa tay vuốt nhẹ là lại trúng một con.”
Sư Bản Tịnh nhìn bài kệ trên bàn, đúng là có tầm chục con bọ đang bò trên giấy, như mùi mực đã dụ dỗ chúng.
“Nhiều thật thầy ạ, nhưng không sao, loài này không ảnh hưởng gì. Chỉ hy vọng chúng không xuất hiện ở ngoài vườn, để con dặn các thầy các tiểu khác lưu ý.”
“Có hơi kỳ lạ.” Mãn Giác như thể quên mất họ đang nói về vấn đề gì nên lại chuyển qua chuyện khác hẳn, “Ta là người muốn chúng tăng bằng hữu của ta đến đây hôm nay, nhưng bây giờ ta lại có hơi sợ. Nghe thật ngốc, nhưng ta đã nghĩ chắc có lẽ mình không làm được: ra ngoài đó, đứng đối diện với mọi người, được tất cả ánh mắt đổ dồn về phía mình trong khi mình chẳng hề nhìn thấy ai cả, sau đó sẽ phải nói những gì cần nói. Cả cuộc đời ta đã thuyết giáo rất nhiều, thậm chí có đôi lần với quy mô khủng khiếp, như thể đứng trước toàn bộ thế gian. Song bây giờ ta bỗng nhiên thấy hơi hồi hộp và sợ mình sẽ không làm được. Ta bắt đầu nghi ngờ cái sở học và sở tu của mình…”
“Không phải đâu thầy, thầy nghĩ nhiều rồi. Là do tuổi tác thôi, tuổi tác đem đến những cảm xúc kỳ lạ và những trải nghiệm kỳ lạ. Chúng ta đều là lần đầu tiên sống trên đời, tất nhiên sẽ luôn thấy mọi thứ đều mới mẻ. Người ta tin rằng một người đã sống lâu sẽ dần dần cảm thấy mọi thứ thật cũ kỹ và đâm ra nhàm chán. Song con lại cho là không phải, cuộc đời luôn luôn mới mẻ, mỗi ngày.”
Sao Bản Tịnh lại nói thế nhỉ, trong khi chính ông sáng nay vừa không kìm được mà than thở thế giới này thật cũ kỹ? Không biết những lời này có phải là thật tâm ông nghĩ thế, hay ông chỉ nói để thầy bớt căng thẳng.
Cả hai bước xuống bậc tam cấp, Bản Tịnh lại nói tiếp, mắt vô tình ngước lên nhìn thiên không đầy mây trắng, “Thầy sẽ làm tốt thôi, mọi người không đòi hỏi chúng ta gì cả, thầy à. Chúng ta cứ nghĩ cuộc đời đang đòi hỏi mình rất nhiều, song thực ra chẳng ai đòi hỏi ta gì cả!”
Bằng một cách vô thức nào đó, Bản Tịnh nảy ra một quyết định, xuất phát từ ham muốn đã luôn ẩn sâu trong đáy lòng bao lâu nay. Rằng có lẽ, Bản Tịnh nên rời xa thầy, ông nên buông tay không dìu thầy nữa, dẫu thầy đã luôn dìu ông suốt những năm tháng ông còn thơ dại.
⬩⬩⬩
Buổi trò chuyện và thuyết pháp diễn ra trong không khí trang nghiêm, đến khi bài kệ “Cáo tật thị chúng” được đọc, ai cũng không kìm nổi nước mắt mà cúi đầu sụt sịt. Bản Tịnh chạy vòng ngoài, xem xét tình hình để đảm bảo không có sai sót gì, rồi lại đến bếp kiểm tra đồ ăn thức uống cho tiệc chay bữa chiều đã xong hết hay chưa. Ông không bỏ qua buổi thuyết pháp của thầy, song cũng đồng thời có cảm giác mình không hề tham dự vào đó. Dẫu gì thì ông cũng đã được cho đọc bài kệ từ trước, biết hết những gì thầy sẽ nói rồi, chỉ có cái không khí trong giảng đường là không hoà nhập được.
Bản Tịnh nghĩ, bất chấp những gì đang vận động không ngừng ngoài kia, trong ngôi chùa này mọi thứ gần như đứng im. Ông tưởng tượng đến vài trăm năm sau, tên của Mãn Giác và bài kệ “Cáo tật thị chúng” sẽ được nhắc lại trong những giảng đường thuyết pháp (A di đà Phật, hy vọng rằng đến lúc đó chùa chiền miếu tự và Phật pháp vẫn còn được xem trọng). Ước gì ông được nhảy cóc đến đó để xem thử, liệu sau hàng mấy trăm năm, Đại Việt sẽ biến thành cái gì, trong khi ngoại bang vẫn chưa bao giờ dừng lăm le bờ cõi này. Bản Tịnh gần như chỉ có thể cầu nguyện. Đến mức ông đã thử để cầu nguyện cho chính mình có được sự bất tử, nhưng rồi ông cảm thấy không hứng thú nữa.
“Sắp xong rồi đấy, mọi người đã chuẩn bị hết chưa nào?” Bản Tịnh hỏi những người trong bếp. Đám phụ việc công quả gật đầu xác nhận mọi thứ đã sẵn sàng, những bàn tiệc chay đã được dọn ra, mâm bát sạch tinh tươm đã được bố trí đúng nơi.
Thằng nhỏ phụ bếp hỏi ông với đôi mắt sáng rỡ, nói chuyện cung kính không giống nó thường ngày, “Bạch thầy, con nghe bảo trụ trì đã viết một bài kệ, con có thể đến xem không, thầy?”
Không những được đọc, bài kệ viết ra đang được treo trong giảng đường. Bản Tịnh gật đầu bảo thằng bé nếu đã xong hết việc rồi thì cứ đi đâu tuỳ ý, miễn là đừng quấy quả gì khách khứa. Thằng bé hứa chắc chắn rồi phóng đi.
Đúng không, Phật pháp sẽ còn phồn vinh đến hàng nghìn năm nữa, hậu thế sẽ không quên, có thể họ không nhớ hết, nhưng chắc chắn họ sẽ không quên. Bản Tịnh đến chỗ một nồi canh đang réo ùng ục, ngó vào trong: củ cải trắng, bắp cải, khoai tím, táo đỏ, nấm hương, nấm rơm… Mùi hương thật thuần khiết.
Ánh chiều tà dần buông lơi. Bầu trời nhuộm một thứ màu rực rỡ đến kinh ngạc. Hôm nay là một ngày đẹp trời. Cái lạnh của tiết khí mùa đông lởn vởn và ngập đầy, khiến Bản Tịnh nhiều lần phải kéo kín vạt áo bông, nó cũng khiến cho những người khách hành hương đến chùa Giác Nguyên phải chịu nhiều vất vả (ông đã thấy tội nghiệp cho họ, hy vọng họ càng ngày càng tinh tấn với ý chí tu tập kiên cường của mình). Tuy lạnh buốt, nhưng cảm giác khoan khoái kèm một chút thoáng đãng khiến Bản Tịnh yêu thương ngày hôm nay vô cùng. Chỉ mỗi một ngày, chẳng hiểu sao ông cứ có cảm giác mình đã trải qua quá nhiều thứ.
Hoa mai đã bắt đầu nhú lộc và bung cánh trên cành. Những loài côn trùng sâu bọ cũng đã bắt đầu xuất hiện đây đó. Dấu hiệu của sự sống vẫn ẩn hiện trên thế giới đầy những bất an, đầy những ước mơ và những kỳ vọng này – sao thế giới nhỏ bé mà chứa được nhiều thứ thế nhỉ? Ông hy vọng vài trăm năm nữa, cuộc đời vẫn còn những ngày không thể thay thế như hôm nay, dẫu khi đó chúng sinh đang phải đối mặt với điều gì.
Ông nói chuyện với dì bếp, được biết gia đình dì sắp đón đứa cháu đầu lòng. Lần đầu trở thành bà nội người khác, dì thú thật mình có hơi bối rối. Bản Tịnh bảo với dì rằng không cần phải lo lắng gì cả, mọi thứ rồi sẽ tốt đẹp. Hãy luôn luôn cố gắng, nhấn mạnh hơn, hãy luôn luôn tin mình vẫn đang sống. Chúng ta phải tin như thế!
Đột nhiên, thằng nhỏ phụ việc hồng hộc chạy đến, va cả người vào cánh cửa. Dì bếp giật mình, ngoáy lại. Thằng nhỏ tựa cả người vào vách bếp, mếu máo.
Người phụ nữ lớn tuổi hốt hoảng, đưa cái khăn bếp đang dùng lau tay lên che miệng. Bản Tịnh bước ra cửa, những người phụ việc trong bếp cũng nối gót theo ông.
Quy luật tự nhiên vẫn đang chuyển động, ngày hôm nay rồi sẽ kết thúc, và mai lại tiếp tục là một ngày mới.
Trong giảng đường, mọi người đang quỳ sụp quanh sư Mãn Giác. Sau khi đọc xong bài kệ của mình, nói xong những lời cuối, Mãn Giác thiền sư ngồi thế kiết già, thị tịch trong sự thương tiếc của các đồng môn chúng tăng. Bản Tịnh cũng đứng bên ngoài, quỳ xuống bái về phía hình bóng thầy đang ngồi. Có những tiếng khóc trộn lẫn tiếng đọc kinh rì rầm, nhưng Bản Tịnh dường như chẳng nghe thấy gì cả.
Không cần đến kiếp sau, chỉ kiếp này là đủ, thậm chí, chỉ cần một ngày được sống là đủ.
Bản Tịnh hạ một quyết tâm, ông sẽ dặn dò người biên soạn ghi chép hành trạng cho dòng phái, rằng đừng để ông và Mãn Giác gặp nhau. Hãy lùi năm mất của Mãn Giác xuống, hãy tăng năm sinh của ông lên, khiến người đời sau nhầm tưởng cả hai không thuộc cùng một thời đại, không có bất kỳ ngày nào trong đời hai người giao với nhau, như mặt trời và mặt trăng không thể cùng xuất hiện trên bầu trời. Việc ấy liệu có giúp ích được gì hay không thì Bản Tịnh cũng không chắc, thậm chí nếu có ai biết được, ông sẽ trở thành tội nhân. Song, ngay lúc này, Bản Tịnh muốn rời xa Mãn Giác hết mức có thể. Như người hoạ sư vẽ chân dung Phật bỗng nhiên không thể quỳ bái, thờ tự bức hoạ do chính mình tạo ra. Chúng sinh vẫn hay thờ hình tượng Đức Phật do người khác tạc vẽ nên. Bởi vì đôi khi có trường hợp, người nghệ nhân đã lỡ đặt mình ở quá gần một bức hoạ hình Phật, nên dần dà không còn có thể xem nó là một đức tin.
Bản Tịnh đã luôn ở quá gần thầy, đến nỗi ông ước gì mình đã không ở gần như thế. Sư ước gì mình đã ở thật xa thật xa, vậy thì ông mới có thể nhìn thầy trong một hình ảnh hoàn hảo, toàn bích, linh thiêng, giống với những gì người khác thấy.
Bình luận
Chưa có bình luận