Kết
Dưới đường, một chiếc xe cứu thương nữa đang rề rà đảo đầu rời khỏi con hẻm nhỏ, như một con bọ rùa bò lòng vòng khi đụng trúng một vật cản chắn ngang đường đi. Giác ngồi trên giường, quan sát chiếc xe với đèn báo nhấp nháy. Nó không kêu ò e như những chiếc khác. Có lẽ chúng đã ngừng kêu, không muốn kêu nữa, như một người đang bị treo lơ lửng trên mép vực, tay bám được vào một cái rễ cây nhô ra khỏi đất, khản đặc tiếng vì phải kêu cứu quá lâu và nay đã từ bỏ, chỉ đành im lặng trong tuyệt vọng – để rồi, có lẽ, một lát sau khi đỡ mệt sẽ lại tiếp tục lấy hơi để hét tiếp, do bị thúc bởi ý chí sinh tồn. Thuỷ ngồi bên cạnh, ngâm khăn vào nước ấm rồi lau cánh tay chồng. Thuỷ đã khoẻ hơn, Giác thì đã đến giới hạn.
Hồi chiều, đợi mãi mà không thấy cơm tối nên chị đã gọi anh nhưng không nghe trả lời. Chị nhúc nhắc, bước xuống lầu và thấy chồng vật vã trên sô pha phòng khách. Mọi thứ lặp lại cái ngày chị sụp xuống, nhưng hai vị trí đã bị đảo ngược. Giác vừa ăn cháo do Thuỷ nấu – không phải cháo gói mà cháo nhà làm đàng hoàng. Càng lúc chị càng khoẻ và chị tin rằng mình đã khỏi hẳn. Mọi thứ có thể thay đổi chỉ trong một ngày.
Giác tưởng tượng, có lẽ người biên tập viên trẻ tuổi nọ đã thay vị sếp mắc bệnh nặng của mình đem bản thảo Cáo tật thị chúng đến cho nhà in. Mọi thứ đã được dàn trang, xếp chữ và in ấn đẹp đẽ. Nhưng rồi, có vài bên nghe ngóng được đấy là một truyện ngắn có vấn đề nên đã xông vào toà soạn, dùng nhiều hình thức đe doạ để cưỡng ép Nam Phong tạp chí loại tác phẩm ấy đi. Bằng một cách nào đó, người biên tập viên trẻ đã tuồn được bản thảo ra ngoài, để nó lưu lạc đến một ngôi chùa, như cách để gửi gắm nó cho thế hệ sau, sẽ có ai tìm thấy và đọc được. Đúng không, văn chương là câu chuyện của duyên số và lòng tin? Phải, có lẽ một sự việc như thế đã diễn ra. Câu chuyện kết thúc. Thế giới của Giác quá tĩnh lặng và anh cần phải vin vào những tưởng tượng để lấp đầy một ngày. Dựa trên những suy đoán cá nhân của Giác, anh đã tưởng tượng và vẽ nên toàn bộ câu chuyện xoay xung quanh bản thảo truyện ngắn ấy, gói gọn trong một ngày đầu tháng ba năm 1932, giai đoạn con người vẫn còn thoải mái bước ra ngoài đi dạo khắp nơi, ngắm nhìn cuộc sống và gặp gỡ nhau. Một thế giới khác không giống như thế giới của anh hôm nay.
⬩⬩⬩
Cứ như có một khối đá nặng vài chục tạ đang đè nghiến lên lồng ngực, nó bóp nghẹt Giác, khiến anh không thở nổi. Song, một mặt nào đó, anh cảm thấy trong mình lại đột nhiên dồi dào sức sống và anh tin rằng mình sẽ không bị quật ngã, mình sẽ được an toàn, sẽ vượt qua và sớm thôi, dịch sẽ tan, thế giới sẽ quay trở về trạng thái bình thường. Sau đó, chúng ta sẽ cùng nhau cố gắng.
Sang gọi đến lần nữa, có vẻ cậu chàng không yên tâm về tình hình của Giác.
“Vậy là thầy bị thật ạ? Thầy cố gắng lên nhé, không sao đâu, nhìn vậy chứ chăm sóc chút là sẽ hết thôi.” Cậu ta trấn an anh, “Thầy có cần xin dời lịch bảo vệ sang đợt sau nữa không, để em đi hỏi người ta thử!”
“Không, không cần, bài vở gần như đã xong hết rồi. Em cứ tập trung vào bài Tốt nghiệp của mình, đừng để đến hạn rồi chạy không kịp.” Anh trả lời trong hơi thở phì phò.
“Dạ, em biết rồi. Vậy thầy nghỉ ngơi nhé, có gì thì thầy liên hệ với em, chứ em không dám làm phiền thầy trước!”
Cả hai tạm biệt nhau và ở trên giường, Giác cảm thấy có lẽ mình nên hài lòng, Sang sẽ là một bạn đồng hành tốt. Chị Thuỷ bảo anh cứ nghỉ ngơi, có gì thì gọi, chị sẽ ở ngay dưới nhà.
Giác gật đầu, nằm dài trên giường và chỉ biết trân trân nhìn trần phòng. Bao nhiêu đêm anh đã nằm trên chiếc giường này và nhìn trân trân ngắm cái trần phòng màu xanh bạc hà đấy rồi nhỉ? Cha mẹ anh chắc vẫn chưa tha thứ việc anh bất chấp đăng ký học ngành nghiên cứu văn chương, dù bao nhiêu năm đã trôi qua đi chăng nữa. Anh bỗng nhiên muốn gọi điện cho họ, song nghĩ đến những hằn học, những móc mỉa, những cộc cằn, không muốn thấy mặt nhau, nói vài câu lại làm vết thương trong lòng nhau mở hoác ra, Giác không dám nữa. Nó quá khó khăn, hơn mọi cuộc chiến, hơn cả việc đứng trước hội đồng chuyên môn để bảo vệ công trình nghiên cứu (so sánh thế có hợp lý không?).
Trời sâm sẩm tối và Thuỷ đã bật đèn phòng cho anh trước khi rời đi. Anh nhìn ra cửa sổ và thấy một mảnh trăng khuyết bén ngót như lưỡi một cây liềm. Nhiên, một lần nữa hiện lên (từ ánh trăng?) và đi đến ngồi bên cạnh giường anh, trên cái ghế Thuỷ vừa ngồi. Con bé luôn luôn im lặng như một bóng ma (và rõ ràng là vậy). Giác tin rằng Nhiên vẫn thầm trách mình một điều gì đó, và về tất cả mọi điều. Anh nói:
“Vậy là ngày hôm nay sắp kết thúc, một ngày nữa đã trôi qua. Cha có cảm giác mình đang dần dần rời xa con, con đang bắt đầu trở thành quá khứ từng chút một. Mỗi ngày trôi qua thật khó khăn, chúng ta chiến đấu đến kiệt sức, sau đó lên giường đi ngủ, để sẵn sàng đón nhận ngày mai, cũng tiếp tục là một ngày khó khăn và đầy thử thách.”
Thì ra đây là thế giới mà chúng ta đã lựa chọn.
Khuôn mặt Nhiên không thể hiện bất kỳ cảm xúc nào, trơ ra như một con rối gỗ. Thậm chí Giác còn không dám nhìn thẳng vào đôi mắt con bé mỗi khi nó hiện về, vì sợ mình sẽ thấy một điều gì đó mà mình không thể ngờ đến nổi, anh không biết đấy là điều gì, nhưng bản năng nhắc anh rằng anh không nên cố để biết.
“Chúng ta cố gắng một nghìn năm, chỉ để đổi lại một giây phút huy hoàng, và giây phút huy hoàng ấy kéo vực chúng ta dậy, làm chúng ta tin rằng cuộc đời sẽ tốt đẹp hơn. Vậy là chúng ta lựa chọn sống tiếp và cố gắng thêm một nghìn năm nữa để chờ đến giây phút huy hoàng tiếp theo. Nhưng chắc chắn việc này phải có ý nghĩa, đúng không Nhiên? Nó phải có ý nghĩa thì mới có nhiều người lựa chọn sống tiếp đến thế! Nó phải có ý nghĩa thì chúng ta mới lựa chọn chiến đấu đến cùng. Dù cha không biết ý nghĩa ấy là gì, nhưng chắc chắn nó phải có, để giải thích cho sự can đảm của những người đang sống.” Cả những người còn sống và chọn sống.
Cái bóng nhỏ nhắn đưa tay chạm vào mặt Giác. Bàn tay Nhiên mát lạnh. Anh nhắm mắt lại, trong bóng đêm của mi mắt đổ sụp, anh thấy vô số chấm sáng ngổn ngang, như những con bọ rùa bò lung tung, điểm những dấu chấm màu đỏ lên một thế giới đơn sắc. Giác tự hỏi những con bọ rùa mình bắt gặp hôm nay là có thật hay do mình đã tự tưởng tượng ra, bằng những ảo giác quang học. Có lẽ chúng có thật. Có lẽ sự sống vẫn sẽ tiếp diễn, thế giới rồi sẽ ổn, Chúa sẽ tha thứ cho chúng ta (Giác không phải đang nhắc đến “vị Chúa” đó) dù chúng ta đến cuối cùng chỉ là những thất bại.
Bằng cái chạm lạnh lẽo của Nhiên, Giác thấy cơ thể mình nhẹ nhõm hẳn. Anh vẫn ổn, sẽ sống sau khi bao nhiêu người đã chết, anh vẫn sống sau cái chết của rất nhiều người. Hôm nay là một ngày đẹp trời, mất mát và, đúng không, không có gì đặc biệt. Một ngày để sống và chết.
Thuỷ mở cửa phòng, dù bị cái khẩu trang che gần hết mặt nhưng có thể thấy rõ sự mệt mỏi trong chị.
Chị bảo, “Em ngủ bên phòng Nhiên, có gì thì anh kêu em. Nếu không kêu được thì lấy điện thoại gọi, em mở chuông đấy!”
“Được rồi, em cũng ngủ sớm đi nhé! Em chỉ vừa đỡ bệnh chút thôi.” Anh dặn chị.
Thuỷ đến chỗ cửa sổ phòng, nhìn ra ngoài.
“Trời tối rồi.” Chị nói, “Chắc chúng ta sẽ vượt qua được, không biết vì sao em lại tin như thế!”
“Anh cũng tin.” Giác đồng ý.
Sau đó, Thuỷ đóng cửa sổ lại và rời phòng.
Một ngày đầy khó khăn và chật vật cuối cùng cũng sắp kết thúc. Giác nằm trên giường, nhắm mắt lại, biết rằng khi mở mắt ra vào sáng hôm sau, một cuộc chiến nữa sẽ được khởi động, anh sẽ lao vào một chiến trường mới, cũng khó khăn và chật vật không kém.
Có lẽ con người sẽ không bao giờ giải thích được vì sao họ lại yêu cuộc sống này đến thế.
Hồ Chí Minh, 23.02.2025
–HẾT–
Bình luận
Chưa có bình luận