Thời gian đó tôi đã đến trang viên được ngót hai tháng, quen được lối sống và sinh hoạt ở đây, biết đường đến thị trấn, thân thiết với những người làm (trừ Charack, gã này trầm tính kinh khủng và nếu không phải vô tình nghe hắn nói chuyện với đồ ăn, tôi còn tưởng hắn bị câm). Deborah bị cảm, con bé được tôi chăm sóc, đương nhiên rồi, nhưng đồng thời thì đó cũng là những ngày tôi khá rảnh rỗi, không phải dạy học, còn con bé thì ngủ li bì, chỉ dậy lúc ăn và tắm rửa.
Tôi thường lang thang ở Phòng Sách hoặc ra vườn, không thì chỉ nằm thừ trong phòng. Hôm đó như những ngày trước, sau khi cho Deborah ăn sáng, lúc bưng khay đồ ăn ra hành lang dẫn đến cầu thang, tôi thấy Shannon.
Đó là lần đầu chúng tôi gặp nhau, lần đầu tôi thấy cô ấy, nhưng tôi biết chắc người đàn bà đó là Shannon. Cô ta đứng trước cửa phòng của mình, nhìn về phía tôi, nhưng tôi cảm giác cô ta chỉ đang nhìn vào hư không, vô tình tôi lại đứng đó, thần người ra như một con rối.
Shannon xinh đẹp, phải nói thế trước tiên. Cô ta mặc áo ngủ dài tay màu trắng, tóc nâu hơi rối (có vẻ vừa ngủ dậy chưa chải chuốt), mắt xanh lá (đương nhiên rồi, Deborah giống hệt mẹ nó), nước da trắng trẻo, má lấm tấm tàn nhang, môi tái, khóe mắt hơi trũng, nét mặt có vẻ lờ đờ như một người bị mất ngủ kinh niên.
Tôi đi tới, dừng ở bậc cầu thang, gật đầu chào cô ta. Shannon không phản ứng lại ngay, cô ta nhìn chằm chằm vào tôi như đang từ từ phân tích hành động của tôi là gì, sau đó mới gật đầu, một nụ cười nhẹ thoáng hiện trên môi, đôi mắt không có vẻ gì lay động như ngạc nhiên khi thấy tôi.
Tôi mở lời trước để phá vỡ cái không khí kì quặc đó: “Chào bà Ioannou, tôi là gia sư kiêm bảo mẫu của Deborah, tôi vừa đến hai tháng trước”.
Shannon lại nhếch môi cười nhẹ, lần này trong mắt cô có chút phản ứng. Cô ta hé môi, như có vẻ đang dùng hết sức để thốt ra từng từ: “Tôi là Shannon, chắc cô đã nghe rồi, tôi là mẹ của Deborah”.
“Vâng. Tôi vừa cho con bé ăn sáng”. Đến đó, tôi chẳng biết nói gì nữa.
Nhưng bất ngờ thay, Shannon lại mở lời tiếp, cô ta mời tôi ăn sáng cùng.
Đương nhiên không thể từ chối, sao tôi có thể từ chối. Cô ta kêu tôi nói với Granvilla dọn phần ăn sáng lên phòng Khiêu vũ. Khi tôi nói điều này với Granvilla, bà ta không có vẻ gì bất ngờ rằng tôi đã nói chuyện với Shannon, hay ngạc nhiên rằng cô ta đã ra khỏi phòng.
Ông Aiden cũng thế, mà còn lạnh nhạt hơn, ông ta chẳng thèm nhìn lên khi tôi nhắc đến tên Shannon.
Dilan dọn bàn ăn trên phòng Khiêu vũ. Cô ấy nói với tôi rằng gọi là phòng Khiêu vũ là theo cách gọi của Phansicca, chứ từ khi gia đình ông Aiden chuyển đến đây, căn phòng đó bị bỏ trống hoàn toàn, chẳng ai trong gia đình này biết khiêu vũ cả.
Có vẻ Shannon đang sửa soạn, tôi ngồi đợi trong phòng đó hơn mười lăm phút.
Rồi cô ta bước vào, kiêu sa trong chiếc váy ngang gối màu xanh lá có hoa văn xanh đậm nổi như vết mực loang trên nước, cổ chữ V màu trắng khoét ngực, chân đi guốc thấp đế nâu, tóc được búi lửng và gương mặt, rất bất ngờ, được trang điểm tinh xảo. Son môi và phấn hồng khiến cho gương mặt nhợt nhạt như người bệnh ở hành lang ban nãy trở nên trẻ trung và căng tràn sức sống, trông Shannon như một quý phu nhân của một chính trị gia đang ra mắt công chúng.
Lúc này tôi mới nhận ra, so với Aiden, vợ ông ta trẻ hơn rất nhiều. Nhìn dáng vẻ lúc này hay cho dù là ban nãy của cô ấy, tôi nghĩ cô cũng chừng ba mươi là cùng, mà ông Aiden thì ít nhất cũng phải bốn chín. Trông Shannon giống em gái hơn là vợ của Aiden.
Trang điểm và váy áo biến Shannon thành một con người khác, đó chỉ là vẻ ngoài. Khi ngồi xuống đối diện và nở nụ cười đầu tiên với tôi, cô ta vẫn hiện ra là một người đàn bà có phần nhút nhát và dè chừng giống khi ở hành lang.
“Cô đã quen với cuộc sống ở đây chưa?”. Đó là câu hỏi đầu tiên của cô ấy.
Sau đó, cô ấy hỏi về Deborah. Chuyện học hành, ăn uống, vui chơi của con bé. Tôi trả lời từng câu một, cố gắng không bỏ qua bất cứ chi tiết quan trọng gì.
Shannon lắng nghe chăm chú. Tôi cũng phát hiện có vẻ cô ấy bị lãng tai, cùng một câu có khi cô phải hỏi lại ba lần (hoặc có thể cô ta không hẳn là đang tập trung).
Khi ăn xong bữa sáng, chúng tôi đã bước đầu quen biết nhau. Tôi kể cho cô ấy nghe về một phần cuộc sống trước khi đến Tingrow, Shannon lại chia sẻ về cuộc sống khi còn là nghệ sĩ cello của cô ấy.
Tốt nghiệp trường nhạc, đi diễn xướng, gặp Aiden, kết hôn và sinh con, sau đó dừng hẳn công việc, chuyển đi nơi khác, cô ấy nói như thế. Cái cốt lõi là “chuyển đi nơi khác”, chứng tỏ lúc trước nữa họ vốn không ở Maarwim, hay “chuyển đi nơi khác” chính là chuyển đến Tingrow? Nhưng như vậy thì cô ấy chỉ cần sử dụng cụm từ “Tingrow” thôi. Máu tò mò lại nổi lên, tôi càng thấy bứt rứt.
Khi Shannon cúi xuống rót trà, tôi phát hiện trên cổ của cô ấy có đeo một mặt dây chuyền, một chữ K bằng vàng.
Trong nhà Ioannou đâu có ai tên bằng chữ K, tôi đoán đó có lẽ là tên viết tắt của ba hay mẹ cô ấy, hoặc anh chị em. Nhưng sau đó mọi thắc mắc của tôi cũng được làm rõ, cô ấy có một em gái tên Neodrin, sống ở phía Nam, xa hơn nơi của tôi, còn ba mẹ của cô ấy cũng không có ai tên bắt đầu bằng chữ K, họ đều tên Jack (một sự trùng hợp kì lạ).
Có lẽ không phải là người tình, quan hệ vợ chồng của họ tốt đẹp mà, hơn nữa Shannon chắc cũng chẳng ngốc nghếch đến độ phô bày ra như thế cho chồng mình thấy.
Shannon kể nhiều về trang viên Tingrow. Cô ấy nói dù mình không thường đi lại trong khu vực trang viên, nhưng cô biết nơi này rất đẹp.
“Rừng vẫn còn nguyên sơ, cô có thể gặp một vài sinh vật hoang dã như hươu, thỏ, có khi là rắn hay gấu nữa đấy. (Khúc này tôi đã nghĩ Shannon sẽ cười, nhưng cô ấy cứ nói đều đều, không cảm xúc.) Edmund có nuôi ngựa, cô có thể đề nghị anh ta cho cưỡi thử (Edmund có đề nghị tôi cưỡi thử, nhưng tôi sợ bị trông thấy nên từ chối). Khu vườn được Chadran chăm sóc tuyệt đẹp, có một mê cung bằng bụi cây, cô đã đi thử chưa?”.
“Tôi đã đi thử và bị lạc trong đó rồi”. Tôi thú nhận. “Chadran phải đi vào dẫn tôi ra”.
“Chà, đúng là nơi đó rất dễ lạc. Tôi đã vào đó nhiều lần rồi nhưng cũng lạc như lần đầu. Kì lạ thật, có những thứ cứ lạ lẫm như thế, không sao quen được”. Shannon vừa nói vừa nhìn lơ đãng.
Chúng tôi lại nói về Deborah. Shannon kêu tôi kể về những câu chuyện mà Deborah viết và đã cho tôi đọc (khi nãy tôi chỉ nói con bé có viết truyện và cho tôi đọc). Shannon lắng nghe chăm chú, lần này thì tôi chắc chắn. Cô ấy đưa ra bình luận về các câu chuyện đó. Điều này thể hiện một cách rõ ràng rằng Shannon có vẻ đã tham gia một khóa học nào đó về văn chương ở trường đại học, vì cách cô ấy nói về vấn đề này khá nghiêm túc, sâu sắc, dù đó là truyện do một đứa trẻ viết. Hoặc có lẽ, vì tôi chẳng biết gì về văn chương nên những lời bình luận có vẻ đao to búa lớn khiến tôi lầm tưởng rằng người đối diện là một bậc thầy.
Trong các tác phẩm mà tôi đọc, vô tình hay cố ý, các nhân vật chính đều có khiếm khuyết về gia đình – một thành viên trong gia đình, không ba thì mẹ của nhân vật chính đều đã qua đời. Shannon nói rằng đó là sự phản ánh của tiềm thức người viết. “Một đứa trẻ cảm thấy gia đình không trọn vẹn nên khi xây dựng câu chuyện, vô tình đã xây dựng một nhân vật phản ánh chính mình – cũng có một gia đình không trọn vẹn,” Shannon nói.
Cô ấy còn nói về các kết cục, một sự trùng hợp khác, các nhân vật đều chết. Dù hành trình bọn họ trải qua đều là những sự kiện dễ dàng và kết thúc một cách tốt đẹp, nhưng đến cuối cùng của câu chuyện, khi cách đoạn kết chừng vài dòng, bọn nhân vật đều lăn đùng ra chết, những cái chết dù khiên cưỡng và bất ngờ nhưng… không thể nói gì được. Shannon nói rằng đó là một sự ám ảnh, Deborah bị ám ảnh về cái chết, một đứa trẻ tám tuổi bị ám ảnh về cái chết.
Shannon nói về vấn đề này với tư cách mẹ của Deborah bằng một thái độ rất bình thường và tự nhiên như kể về một ngày của mình vậy. Điều này khiến tôi rợn tóc gáy. Tôi không biết cô ấy có đang cố tình hù dọa tôi không, nhưng dù mục đích thế nào thì tôi thật sự đã bị cô ấy dọa sợ.
Đó là hai lời bình mà tôi nhớ nhất của cô ấy về truyện của Deborah. Sau chủ đề đó, không khí giữa chúng tôi trở nên khó chịu. Shannon đã chủ động kết thúc bữa ăn, điều tôi rất mong muốn ngay thời điểm đó.
Buổi trưa, Shannon không xuống ăn cùng mọi người, Dora mang phần ăn lên cho cô ấy, tôi lại đảm nhận chuyện đưa cơm cho Edmund. Dù còn giận anh ta vì mấy lời nói kia, nhưng tôi cũng muốn chia sẻ cho anh ta về buổi nói chuyện với Shannon.
Edmund đang đốt cỏ lúc tôi đến. Khói bay mờ một bãi rừng, tôi thấy anh ta đeo khăn che hình tam giác trên mặt chỉ chừa lại đôi mắt như một gã cao bồi, dùng que cời gom đống cỏ khô quanh đống lửa. Nhìn thấy tôi mang cơm đến, anh ta chỉ tay vào nhà, sau đó lại chỉ vào đống cỏ. Tôi vào nhà đợi anh ta.
Một tuần không đến, căn nhà không thay đổi gì (tất nhiên rồi). Chừng mười lăm phút sau Edmund mới vào nhà, mang theo mùi khói đốt cỏ choáng ngợp.
“Em định về rồi đấy, đi lâu quá Granvilla sẽ nghi ngờ,” tôi nói.
Edmund vào nhà vệ sinh rửa mặt, sau đó mới trả lời tôi: “Bà ấy biết chuyện của chúng ta”.
Tôi kinh ngạc: “Anh nói à?”.
Edmund đi ra với nụ cười và nhìn tôi như nhìn một kẻ ngốc: “Granvilla biết mọi thứ, bà ta là quản gia của trang viên này, không sinh vật sống nào ở đây qua được mắt bà ta. Nếu có chuyện bà ấy không biết, như chuyện anh vào thị trấn, thì chỉ do bà ấy không muốn biết”.
Vậy là ấn tượng của tôi về người đàn bà đó không sai. Bà ta là một con mèo, lặng lẽ, âm thầm và phán xét.
“Em đã gặp Shannon rồi”. Tôi không quên mục đích mình ngồi đợi.
“Chà”. Edmund cảm thán. “Cô ấy thế nào?”.
“Em không nghĩ cô ấy trẻ như thế. Ông Aiden dường như đã ngoài năm mươi, còn cô ấy chỉ như hai mấy”.
“Họ chênh nhau hai mươi ba tuổi,” Edmund nói.
Tôi sốc, trố mắt trước câu nói của anh ta.
“Hai mươi ba”. Tôi cao giọng, không thể tin nổi.
Edmund tủm tỉm cười.
“Cô ấy có vẻ ốm yếu lắm, bị bệnh sao?”. Tôi cố gắng chấp nhận câu chuyện này (thật sự quanh tôi không quen cặp vợ chồng nào chênh lệch tuổi tác như thế, nên phát hiện này khiến tôi chấn động thật sự), lái qua một câu hỏi khác.
“Hình như thế, anh không rõ, đã lâu rồi không gặp”. Edmund gật gù.
“Chẳng sao, có lẽ em sẽ sớm biết nhiều hơn về cô ấy. Tụi em có một khởi đầu khá tốt đẹp, cô ấy mời em ăn sáng chung đấy”. Tôi đắc ý.
Edmund có vẻ chẳng quan tâm đến câu chuyện của tôi. Anh ta dỡ cơm ra và bắt đầu ăn. Điều này khiến tôi có chút tủi thân, tôi đã nghĩ rằng chuyện về Shannon sẽ khơi lại cảm xúc giữa chúng tôi, nhưng hóa ra Edmund chẳng để tâm mấy. Mà nói công bằng, ngoài tôi ra, ở nơi này chẳng ai quan tâm chuyện của Shannon. Vì tôi mới đến, cô ấy lại có hành tung bí ẩn nên tôi mới háo hức tìm tòi về cô ấy như thế.
Sau bữa trưa, tôi lên phòng Deborah kiểm tra con bé thì phát hiện Shannon đang ở trong đó. Cô ấy vào mà không khép kín cửa nên tôi vô tình nghe được cuộc nói chuyện giữa hai người.
Shannon đọc nhật kí của Deborah, như con bé từng nói, sau đó nói về một số chuyện trong đó. Đa số là những suy nghĩ của con bé về vài chuyện xảy ra trong ngày, và cả chuyện về tôi. Vì thế tôi mới biết Deborah viết khá nhiều về tôi ở trong nhật kí từ khi tôi đến. Con bé gọi tôi là “chị giáo”, và bảo rằng học với tôi thú vị, vì tôi không giao bài tập làm thêm, tôi cũng không ép con bé phải ăn những món nó không thích (cà rốt và củ cải trắng) để đủ chất (những gia sư kiêm bảo mẫu trước thường khuyên nó phải ăn khi biết nó không thích ăn), tôi cũng không kể những câu chuyện ma dọa dẫm con bé để nó đi ngủ sớm, hay không ham chơi (tôi không nghĩ nổi lại có những người dùng phương cách này để rèn giũa một đứa trẻ). Khi đó tôi rất sợ Deborah ghi vào nhật kí trò chơi bí mật của chúng tôi, nhưng may mắn là con bé không ghi. Nó chỉ nói rằng “chị giáo” bày rất nhiều trò chơi mới cho mình, và điều đó khiến nó rất vui.
Shannon giở những trang tiếp theo, rồi có vẻ cô ấy dừng lại, sau đó hỏi con gái mình: “Con mơ thấy chị à?”.
Deborah trả lời với giọng rất nhỏ, tôi gần như không nghe thấy. Có lẽ con bé “dạ”, nhưng tiếng quá nhỏ nên tôi chỉ nghe “ạ”.
“Mẹ cũng hay thấy chị,” Shannon nói. “Cứ mỗi ngày sương mù dày, sáng thức dậy, nhìn xuống hồ nước mẹ lại thấy khung cảnh hôm ấy”.
“Ba nói, người mất rồi sẽ luôn sống trong kí ức của người ở lại”. Tôi nghe cái giọng ngây thơ của con bé thốt lên.
Lại một phát hiện khác. Deborah có chị gái, và Shannon rõ ràng có ít nhất hai cô con gái, ông Aiden cũng thế. Theo lời họ nói, rõ ràng là cô chị đã mất, và địa điểm… chính là hồ nước kia.
Trong khu vực trang viên có nhiều đầm và hồ, nhưng nơi mà có thể nhìn thấy từ phòng của vợ chồng họ thì chỉ có… tôi biết nơi đó.
Nhưng Deborah chưa từng chia sẻ cho tôi biết chuyện con bé có chị gái. Có thể cái chết của cô con gái lớn đã khiến Shannon thu mình, và ông Aiden thì nghiêm cấm những người trong trang viên nhắc đến chuyện này, ngay cả Deborah.
Lúc này, tôi lại thấy thương cảm Shannon. Cô ấy còn quá trẻ để đương đầu với chuyện như thế. Tôi không tưởng tượng nổi chuyện mất đi người thân sẽ đau lòng thế nào. Dù quan hệ anh chị em trong gia đình tôi không quá khăng khít hay hòa hợp, nhưng tôi không dám nghĩ đến một ngày sẽ nhận được tin bi kịch như thế.
Tội nghiệp Shannon. Có thể một phần cô trở nên thu mình như thế chính là vì cái chết của con gái lớn.
Lúc này, trong đầu tôi bắt đầu xâu chuỗi câu chuyện. Không khó để suy đoán, sợi dây chuyền chữ K kia có thể là tên viết tắt của đứa trẻ xấu số, Shannon đeo nó để tưởng nhớ. Cô ấy thu mình lại sau cái chết của con gái (điều này cần xác nhận lại mốc thời gian), và chính vì việc này, Aiden phải tìm người thay thế vợ mình chăm sóc con gái nhỏ Deborah.
Mãi nghĩ ngợi, tôi đã bỏ qua quá nửa thông tin về cuộc đối thoại trong phòng. Lúc tôi tập trung lại, họ đã nói qua đến một chuyến đi nào đó sắp sửa diễn ra.
“Ba nói năm nay chúng ta sẽ đi bốn ngày”. Deborah cao giọng phấn khích, sau câu này con bé ho sặc sụa.
Shannon có vẻ không hào hứng như vậy, cô ấy không trả lời.
“Ba nói ông bà nội đã mua cho con một hộp nhạc mới hình chú nai Bambi”. Vừa ho xong nên giọng con bé hơi khàn.
Ra là đến thăm ông bà nội.
Sau đó, Granvilla mới cho tôi biết, hàng năm hai vợ chồng Aiden và Shannon sẽ dẫn Deborah đi thăm ông bà khoảng bốn, năm ngày. Thời gian đó cũng là kì nghỉ của người làm trong trang viên. Bà ta nói tôi có thể về thăm gia đình, hoặc vào thị trấn thuê khách sạn ngủ lại và tiệc tùng với mọi người khác, Dilan, Dora, Chadran, Charack.
Không thấy bà ta nhắc đến Edmund, tôi mới hỏi. Granvilla nhìn tôi bằng ánh mắt sâu xa khiến tôi nhớ lại lời của Edmund, bà ta biết mọi thứ, làm tôi chột dạ vô cùng.
“Edmund không rời khỏi nhà trong rừng,” bà ta trả lời. “Anh ta phải chăn gia súc, trông coi rừng, đề phòng bọn lâm tặc”.
Chà, xem ra Edmund là người được lương cao nhất ở trang viên này rồi, làm không có ngày nghỉ.
Trước lúc rời đi, Aiden đề nghị mua vé máy bay cho tôi về thăm nhà, nhưng tôi đã từ chối. Tôi muốn ở lại nơi này để… khám phá thêm chút gì đó. Tôi nghĩ đến chuyện vào thị trấn với mọi người để hóng chuyện, hoặc là kiếm một “bạn” mới thay thế Edmund. Tôi cũng bắt đầu ngán cái kiểu tỏ ra dửng dưng của anh ta rồi (dù phải thừa nhận một cách khó chịu rằng anh ta nói đúng, tôi quá tò mò và tọc mạch), buồn cười rằng trước đó tôi lại ưa anh ta vì cái kiểu đó, đúng là tréo ngoeo.
Aiden nói tôi có thể thoải mái đi lại trong trang viên, nhưng cẩn thận khu vực các hồ nước. Ông ta nói đó là khu vực không được chăm sóc, phát quang nên có thể có rắn và đất bùn trơn trượt khiến tôi té ngã.
Điều ông ta nói khiến tôi liên tưởng đến câu chuyện mà mình “vô tình” nghe được của Shannon và Deborah. Có lẽ cô con gái lớn của Aiden đã chơi gần hồ nước và trượt chân ngã xuống rồi chết đuối chăng.
Sau khi ba người họ rời đi, trang viên tĩnh lặng đi rõ. Tôi biết đó là do sự vắng mặt của Deborah, con bé là chú chim nhỏ hót tíu tít của trang viên. Có Deborah, nơi này nhộn nhịp và huyên náo, ai ai cũng muốn trò chuyện với con bé. Deborah đi vắng, mọi người lầm lũi, các người làm vào thị trấn, bà Granvilla tận hưởng những giờ uống trà đằng đẵng trong sự yên vắng đáng sợ.
Tôi quanh quẩn trong biệt thự hai ngày đầu tiên. Đọc sách, soạn giáo án, nhảy điên cuồng trong phòng Khiêu vũ (những điệu nhảy không theo trường phái nào), nằm dài trên xô-pha, chạy bịch bịch trên hành lang mỗi tối mà không sợ ai khiển trách. Trong tôi cháy bùng một ngọn lửa nổi loạn, giống như quay về tuổi dậy thì ở nhà một mình khi không có người lớn, làm mọi điều mà không sợ bị ai phát hiện và trách mắng. Bà Granvilla luôn luôn ở nhà cánh phải, bà nói rằng không có chủ thì bà không việc gì phải qua lại biệt thự, lúc này tôi vô cùng biết ơn sự cứng nhắc của bà.
Rảnh rỗi sinh nông nỗi, tôi bắt đầu tò mò căn phòng ngủ của vợ chồng nhà Ioannou. Một buổi tối nọ, sau khi ăn tối và rửa chén dĩa (tôi phải tự nấu ăn, có phần khó khăn sau một thời gian bạn đã quen được phục vụ tận răng), trong lúc đi dạo để tiêu cơm, tôi nghĩ đến căn phòng bí ẩn của hai vợ chồng họ. Đó là nơi duy nhất tôi chưa được vào (Aiden đã sai, rõ ràng có cấm địa trong trang viên).
Tôi đoán rằng họ sẽ khóa cửa, nhưng vẫn muốn thử vận may của mình.
Không bất ngờ gì, rõ ràng họ đã khóa cửa cẩn thận trước khi đi, tôi không vào được.
Bình luận
Chưa có bình luận