Tôi không gặp Tom tối hôm đó. Khi anh gõ cửa nhà tôi, tôi đã lấy cái cớ xưa như Trái Đất để đuổi khéo anh là tôi bị cảm cúm nặng và không thể để anh vào nhà. Nhưng anh nhạy cảm hơn thế nhiều. Anh bảo rằng “nó” nằm ở trong giọng nói của tôi, và mặc dù là anh không thể chỉ đích danh “nó” ở đây là gì, nhưng anh quả quyết rằng “nó” đang khiến tôi bận lòng. Đâu chỉ có thế, anh còn năm lần bảy lượt khăng khăng chỉ cần tôi để anh xem qua tình hình bệnh tật của tôi ra làm sao là anh sẽ rời đi ngay, khiến tôi phải vắt óc giở hết các bài diễn tuồng ra mới thuyết phục được anh. Mà cũng đâu có dễ dàng gì, tôi phải nói rã họng tới hơn chục phút đồng hồ thì anh mới chịu nguôi. Công nhận là anh cứng đầu khủng khiếp. Nhưng nói tóm lại thì tôi đã không gặp Tom vào tối hôm đó.
Giấc ngủ cũng là một điều xa xỉ đối với tôi trong cái đêm hôm đó nữa. Cứ mỗi lần tôi cố chợp mắt là ngần ấy lần khuôn mặt chực òa khóc của Jane lại hiện ra trong tâm trí tôi, khiến ruột gan tôi cứ thế hò hét bảo nhau cuốn chặt lấy thứ bên cạnh chúng và thắt nút lại. Tôi không muốn bạn lầm tưởng rằng tôi đang cố bào chữa cho bản thân, vì suy cho cùng hành động của tôi với chị Jane đã xuất phát từ mưu đồ bất chính. Nhưng tôi hối hận vì những gì tôi làm với chị là thật. Tôi hối hận khủng khiếp. Có nói thế nào đi nữa thì tôi cũng không muốn đánh mất chị. Tôi không muốn nói là tôi nợ nần tình cảm gì chị ở đây, nhưng chuyện chị là người có công lớn nhất trong việc nâng đỡ tôi dậy khỏi cái hố sụt u sầu khi tôi mới chia tay người cũ là điều không có gì phủ nhận được. Trên đời này quả thật không có gì nặng hơn một khoản nợ cảm xúc.
Nằm suy nghĩ về đủ thứ chuyện trên đời tới gần rạng sáng thì tôi quyết định lại chạy trốn. Ý nghĩ đó chỉ chợt xảy đến với tôi khi tôi tình cờ nghĩ tới cô em gái bé nhỏ của tôi. Con bé tên là Melinda, người kém tôi ba tuổi, hiện đang bận ngập đầu trong những ngày tháng cuối cùng của chương trình lấy bằng tiến sĩ tại Viện Đại học John Hopskin. Con bé phải nói là cực kỳ thông minh, thuộc dạng tài năng xuất chúng đấy. Trái ngược hoàn toàn với đứa anh trai song sinh Brandon của con bé. Chỉ có điều… ừm, tôi biết phải giải thích với bạn sao cho đúng nhỉ? Ừm… để tôi nói thế này cho dễ hiểu nhé. Bộ não của con bé là một món quà vô giá, cái đó là sự thật, nhưng trớ trêu thay, những gì tiết ra từ nó rất có khả năng lại là mối nguy hại lớn nhất của cuộc đời em. Con bé là bà chúa lo lắng. Nó tự ti khủng khiếp luôn. Lúc nào cũng nghĩ mình chỉ thuộc dạng tôm tép kém cỏi của một tập thể và cho rằng bản thân chưa đủ tốt. Ấy thế mà chớ có ai dại khuyên bảo con bé chỉ đang quá lo xa thôi đấy nhé, nếu không muốn phải nghe những bài thuyết giáo kéo dài hàng giờ đồng hồ về những thành tựu to lớn của những bậc vĩ nhân bắt đầu từ thuở người tinh khôn xuất hiện cho đến thời đại kỷ nguyên số, khi họ ở cùng độ tuổi chúng ta. Cái này thì tôi xin nhận là tôi có phần hơi nói quá, nhưng đúng là tôi không thể nào hiểu con bé được.
Chuyện chẳng là mấy bữa trước, Melinda có gọi điện và tâm sự với tôi việc con bé đang được những mấy công ty dược phẩm hàng đầu săn đón. Điều này rõ ràng là một tin cực vui đối với bất kể ai đúng không? Nhưng đối với Melinda thì lại khác. Tôi chưa bao giờ có chút hoài nghi nào về năng lực của con bé, nhưng bên cạnh việc phải chứng tỏ được bản thân cùng lúc cạnh tranh với những tài năng xuất chúng không kém cạnh gì em, điều khiến em lo lắng nhất chính là vấn đề về mặt đạo đức. Con bé lo sợ rằng sự tham lam và bản tính bất chấp mọi giá để hiện thực hóa tham vọng của những công ty lớn sẽ buộc em phải gạt bỏ hết những nguyên tắc sống của mình. Con bé không muốn gì nhiều hơn ngoài việc góp phần giúp sức biến thế giới này trở thành một nơi tốt đẹp hơn. Và khi tôi hỏi: “Vậy kế hoạch sau khi lấy bằng tiến sĩ của em là gì?” Melinda đã trả lời rằng: “Em dự định sẽ tham gia vào quỹ nghiên cứu và tình nguyện y tế tại một số nước châu Phi, rồi sau đó tính tiếp.” Tôi hỏi bạn, cái câu “rồi sau đó tính tiếp” của con bé nào có khác gì ẩn ý của một cuộc chạy trốn thực tại đâu cơ chứ? Và chắc chắn là mẹ tôi sẽ lại ngất lên ngất xuống khi bà nghe được dự định này của con bé cho mà xem. Nhưng tôi tôn trọng Melinda và không nói gì nhiều hơn với con bé ngoài việc tôi hết mình ủng hộ quyết định này của em, và khuyên em hãy theo đuổi mục tiêu của mình đến cùng: góp sức giúp cho thế giới trở thành một nơi tốt đẹp hơn.
Tôi trở lại với cái vụ chạy trốn của tôi. Vào lúc ý nghĩ này chợt xuất hiện, tôi đã lập tức co giò hất chăn bật dậy khỏi giường. Ngoài trời lúc này vẫn chưa sáng hẳn, nhưng ánh đèn điện đã không còn cần thiết nữa. Khi đã bận đồ tử tế xong xuôi, tôi vội vội vàng vàng lôi chiếc vali nơi góc nhà ra và ném nó lên giường, sau đó mở tủ và nhét vội bất kể thứ quần áo nào chạm tới tay tôi trước tiên vào trong chiếc vali mà chẳng cần gấp gọn lại hay đánh giá xem liệu chúng có phù hợp với thời tiết. Mọi thứ cứ thế điên cuồng xoay chuyển xung quanh tôi và chiếc vali trong cái căn hộ chưa đầy bốnmươi mét vuông và chỉ sau mười phút đồng hồ, tôi đã có mặt dưới phố sẵn sàng bắt taxi ra ga tàu.
Tôi vẫy chiếc taxi đang đỗ phía bên kia làn đường. Khi xe chạy đến, tôi để mặc người tài xế giúp tôi cất vali vào cốp chứa đồ như thể đó là trách nhiệm của ông ta trong khi tôi chui tọt vào trong xe mà không có lấy một lời cảm ơn nào. Tay tài xế xem chừng có vẻ khá khó chịu với hành động thô lỗ đó của tôi. Ông ta đóng cốp xe cái rầm khiến cả cabin xe rung rinh lên như thể chúng tôi vừa băng qua mấy cái ổ gà liên tiếp vậy. Một hành động khá dữ dội. Dẫu sao thì tôi cũng không quá để ý đến thái độ của người tài xế. Tôi thất thần nhìn ra ngoài cửa sổ phía hành khách ngắm trời nhìn đất và suy ngẫm về một điều gì đó mà bây giờ bản thân chẳng nhớ nổi, cho đến khi bị tay tài xế hét vào mặt.
“Này, bố trẻ,” ông ta gọi tôi, giọng ồm và trầm ghê gớm. “Thế bố trẻ cứ định ngồi đực ra ở đây cả ngày đấy à?”
Tôi tức thì quay sang nhìn ông ta, có hơi hoảng. “Có vấn đề gì thế bác tài?”
Vẫn là cái ánh nhìn hậm hực đó. “Vấn đề là địa chỉ,” ông ta gắt lên. “Bố trẻ muốn đến địa chỉ nào?”
Tôi biết ông ta khó chịu với tôi lắm, nhưng tôi mặc kệ. “Nhà ga Union.”
Tay tài xế quay đầu lại chỗ vô lăng. Ông ta hoàn toàn không có chút ý thức nào về việc tôi đã thấy cái bĩu môi chê bai cùng những lời lẩm bẩm không thành tiếng của ông ta qua tấm kính chiếu hậu. Mấy câu chửi thầm khách mở hàng ám quẻ, bạn và tôi hẳn cũng chẳng lạ lẫm gì. Chiếc xe tăng tốc phi mã khi chúng tôi ra đến đường lớn. Bầu trời trên đầu chúng tôi dần hửng sáng. Và tôi cứ đinh ninh rằng sau ấn tượng chẳng mấy tốt đẹp ban nãy, chuyến đi của chúng tôi sẽ cứ im ắng như thế mãi cho đến cuối chặng dừng. Nhưng rồi chính tay tài xế lại là người mở lời trước.
“Cậu em đi trốn nợ à mà sốt sắng thế?” Ông ta hỏi tôi bằng một giọng tỉnh bơ như không.
Tôi há hốc, chớp mắt mấy cái nhìn ông ta lúc này cũng đang nhìn tôi qua tấm kính chiếu hậu. “Bác cứ khéo đùa. Người như tôi chớ có vay mượn tiền nong của ai bao giờ.”
Ông ta cười xòa. “Không phải thì thôi. Cậu em đừng bực mình.”
“Xùy, chuyện cũng chẳng lớn đến mức khiến tôi phải bực mình,” tôi nói, vốn tính sẽ giữ im lặng để cuộc trò chuyện được kết thúc tại đây, vì bình thường tôi chẳng ưa trò chuyện cùng người lạ cho lắm. Ấy thế chẳng hiểu sao lúc đó, tôi lại có cảm giác thèm thuồng được nói chuyện với một ai đó quá thể. Thế là tôi hỏi ông ta. “Mà bác trông tôi giống người đang đi trốn nợ lắm à?”
“Hơn hai mươi năm trong nghề, tôi đã gặp đủ thể loại khách hàng rồi, cậu em ạ,” ông ta cười và bảo tôi. “Nhìn bộ dạng của cậu em thì không hẳn là đi trốn nợ. Nhưng chắc chắn là đang trên đường trốn chạy một điều gì đó phải không?”
Hàng lông mày trái của tôi giật giật. “Bác nói thế không tính đến trường hợp tôi là tội phạm nguy hiểm hay sao? Nếu nhỡ tôi sợ bị bác tố giác mà sát hại bác để bịt đầu mối thì thế nào?”
“Cậu em vui tính quá.” Rồi ông ta vạch một bên lưng áo lên cho tôi xem. Tôi còn nhớ là tôi đã thảng thốt lên thành tiếng khi nhìn thấy chẳng chịt những vết sẹo phía đằng hông phải người đàn ông. Và ông ta nói tiếp, “Nhưng số tôi như con gián ấy, khó chết lắm. Tôi có mấy vết sẹo này từ một vụ cướp xe bảy năm trước. Một đôi tình nhân. Chúng đâm tôi bốn nhát vào hông, trong đó có một nhát cắt xuyên qua gan. Thế mà tôi vẫn sống được mới tài chứ.”
“Bọn cướp đâm bác những bốn nhát cơ à?” Tôi bỗng cảm thấy mình gần như cần phải bật dậy khỏi ghế ngồi. “Chúng chỉ cần đe dọa bác rồi để bác trao xe ra cho chúng là xong. Hà cớ gì chúng phải ra tay nặng với bác như thế nhỉ? Đúng là quân mọi rợ.”
Ông ta cười phá lên. “Cậu đã thấy tên tôi phạm nguy hiểm nào gọi một tên tội phạm khác là “quân mọi rợ” như cậu bao giờ chưa?”
Tôi ngả mũ chịu thua. “Bác bắt thóp tôi rồi đấy. Dù có sống thêm mười kiếp nữa thì tôi cũng chẳng có gan để gây ra tội ác cho ai bao giờ. Tôi chỉ là một tay giáo viên trói gà không chặt mà thôi.”
Ông ta ngước lên nhìn tôi từ đằng kính chiếu hậu vẻ rõ ngạc nhiên. “Ồ, cậu là giáo viên à?”
Tôi gật đầu, tò mò. “Vâng. Mà có chuyện gì hả bác?”
“À, không.” Ông ta lắc đầu. “Chỉ là tình cờ đôi tình nhân cướp xe của tôi lúc đó vẫn còn đang trong độ tuổi đi học. Mà cậu biết đấy, giáo viên với học sinh. Hai thứ đó ít nhiều cũng có chút liên hệ đến nhau, nhỉ?”
Tôi chẳng biết phải đồng tình hay bác bỏ, trao cho ông ta một nụ cười như không cười. “Thế cảnh sát nói cho bác biết điều đó à? Rằng bọn cướp còn đang trong độ tuổi đi học ấy.”
“Cũng không hẳn. Tôi đã biết ngay từ lúc nhìn thấy bộ mặt non choẹt của chúng rồi, cộng thêm cả cái cách mà đứa con gái phản ứng nữa,” ông ta nói. “Con bé đó có thai, và bọn chúng đi cướp để kiếm tiền lo cho cái thai trong bụng con bé.”
“Ôi trời. Đúng là sai lầm nối tiếp sai lầm,” tôi thốt lên chán ngán. “Mà tôi cũng phục bác thật. Bị một vụ nhớ đời như vậy rồi mà bác vẫn quay trở lại với cái nghề này nhỉ?”
“Cái đó khó lý giải lắm.” Người tài xế miết tay lên một bên cánh mũi hồi lâu như thể có một cục thịt đáng ghét vừa nổi lên ở vị trí đó và ông ta thì không tài nào xoa tan nó đi được. Và thực tế là tôi đã thấy một nụ cười bừng sáng trên gương mặt ông vào lúc đó, khiến tôi có một cái nhìn hoàn toàn khác về ông. Ông trông thật giản dị, và giọng nói trầm của ông cũng trở nên ấm áp và dễ nghe hơn hẳn cái lần mà ông gọi tôi là “bố trẻ” trước đó. Rồi, ông nói tiếp, “Sau vụ cướp, tôi cũng chiều lòng gia đình và thử làm qua một vài nghề khác nhưng không sao theo nổi việc gì quá tháng thứ ba. Chân tay tôi lúc nào cũng cảm thấy ngứa ngáy phát khùng vì nhớ cảm giác cầm vô lăng và đạp chân ga khủng khiếp. Nhưng phải thú thật với cậu là sau vụ cướp, tôi cũng bị tổn thương tâm lý thật. Khi quyết định quay trở lại làm tài xế taxi, mấy ngày đầu tôi thậm chí còn chả dám nhận cuốc khách nào cơ mà. Nhưng cậu biết đấy, một trong những điều kỳ diệu của thời gian là nó có khả năng chữa lành tất cả. Tôi biết cái nghề lái taxi của tôi chẳng phải thanh cao gì, nhưng tôi tìm được sự thanh thản trong mình với nó. Tôi thích cảm giác được ngồi sau vô lăng và lượn lờ xung quanh thành phố. Thế cậu bảo xem còn thứ gì tốt hơn là vừa được làm điều mình thích, vừa kiếm được ra tiền nữa chứ? Đúng không hả?”
Tôi mỉm cười với ông. “Vâng. Đó là điều không phải bàn cãi.”
Tôi quyết định boa thêm cho Jacob (tên của người tài xế) nhiều hơn những gì mà tôi cần phải trả và gửi lời cảm ơn đến ông về chuyến đi đầy cởi mở. Ông chúc lại tôi lên đường bình an, không quên kèm theo danh thiếp của ông cùng một lời nhắn nhủ nếu có quay trở lại California và cần taxi thì hãy gọi điện cho ông, bất kể ngày hay đêm. Đúng là một người tài xế đáo để.
Theo dõi chiếc taxi rời xa một quãng, tôi kéo vali dọc theo lối đi dẫn tới sảnh chính Nhà ga Union cách đó chừng chục bước chân; nắng mặt trời lúc này đã chạm tới đỉnh tòa tháp đồng hồ. Chào đón tôi là quầy thông tin nằm chính giữa sảnh lớn. Có một quán rượu nhỏ nằm ngay cạnh cửa ra vào hướng tay phải và khách khứa trong quán lúc này hầu như không đáng kể. Tôi đắn đo nhìn lên tấm bảng hiệu của quán rượu một lúc và nghĩ bụng đúng là được uống một ly vào lúc này thì tuyệt hết xảy. Nhưng dẫu sao thì quán rượu không phải là điểm đến nằm trong bản kế hoạch của tôi; men say của rượu rất có thể sẽ khiến tôi bị trượt khỏi quỹ đạo. Tôi xốc lại chiếc vali và bước một mạch qua những quầy hàng lưu niệm dọc hai bên lối đi để đến với quầy bán vé nơi gần cuối dãy tòa nhà. Từ đằng xa, tôi trông thấy một nhóm người đang ghi hình lại tài nghệ chơi đàn piano của một cậu bé. Cái piano được kê trong góc, rõ ràng là để trưng bày, song những nhân viên vận hành của tòa nhà sẽ không ngần ngại để bạn chơi một bản nhạc nếu bạn có nhã hứng. Tôi thì không rành về âm nhạc cho lắm nên đành bó tay nếu bạn có muốn biết cậu bé đang chơi bản nhạc gì, song tôi có thể cho bạn biết là em đã chơi rất tuyệt. Khi gần đến nơi, có một người phụ nữ nhanh chân hơn tôi bước vào hàng chờ trước quầy bán vé. Tôi lầm lũi đứng sau chị. Ngắm nhìn hàng người dài dằng dặc phía trước mình, tôi bỗng cảm thấy một nỗi buồn khôn tả. Họ hầu hết là dân đi làm sáng sớm; một số là dân du lịch. Chỉ riêng mình tôi chạy trốn.
Tôi đã nghĩ về điều này từ lúc còn ở trong thang máy tòa chung cư, nhưng cho đến tận lần thứ ba khi cô gái bán vé lặp lại cùng một câu hỏi, tôi vẫn không sao trả lời cô ta được. “Thưa ngài, tôi cần biết điểm đến của ngài để xuất vé.”
Tôi nhìn vào mắt cô nàng, đỏ mặt, ấp úng. “T-tôi muốn…”
Tôi để ý thấy một sự ngập ngừng ngắn từ phía cô gái bán vé trước khi cô quyết định làm điều này với tôi. Và rồi cô nói, “Thưa ngài, nếu ngài chưa thể xác định được điểm đến, tôi buộc lòng phải mời ngài rời khỏi quầy vé để nhường chỗ cho người tiếp theo.”
Đúng lúc đó, tôi buột miệng. “Alburquerque, New Mexico.”
Tôi đã nói quá nhanh, khiến cô gái phải hỏi lại. “Tôi xin lỗi?”
Tôi vòng tay quanh eo, cảm thấy không ổn lắm nhưng vẫn trả lời. “Alburquerque, New Mexico. Tôi cần một vé đi Alburquerque, New Mexico.”
Bình luận
Chưa có bình luận