15


Tuần lễ tiếp theo là một khoảng thời gian dài và đầy căng thẳng đối với Tom. Nó rất khó để nói nhưng tôi nghĩ rằng vấn đề xuất phát từ ý tưởng ban đầu là kết nối lại với Jane, anh đã dần dà tự dựng lên trong đầu những khối thử thách có kích cỡ to bằng quả núi. Chúng vượt quá khả năng của anh, ngăn chặn và đòi hỏi nhiều điều từ anh hơn cả chỉ riêng về mặt sức mạnh tinh thần nơi anh để có thể vượt qua chúng; nhất là sau khi tôi cho anh hay tin buổi tối hôm đó sẽ là một buổi hẹn hò đôi, nơi mà anh không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc buộc phải gặp gỡ người tình mới của vị hôn thê cũ của anh. Anh sẽ phải ngồi yên tại đó suốt cả buổi tối, trong phòng khách ngôi nhà người tình mới của vị hôn thê cũ của anh, mà không thể phản kháng hay có một lời phàn nàn cụ thể. Bởi vì sau tất cả, bốn người chúng tôi có mặt tại buổi tối hôm đó hoàn toàn là để chiều theo nguyện vọng của anh. Ở đó, anh sẽ phải đón nhận ánh mắt và những lời đánh giá, thậm chí tệ hơn là vạch trần và sỉ nhục từ phía tâm can sâu thẳm của một nhân vật mà anh không hề quen biết, bên cạnh việc anh vẫn chưa biết sẽ phải đối mặt ra sao với người vợ chưa cưới cũ của mình, và điều đó khiến cho mọi sự can đảm trong anh tan biến.

       Một điều hết sức đáng yêu là, để mọi việc được diễn ra thuận lợi hơn, Tom đã viết ra giấy những điều mà anh dự định, hay nói đúng hơn là những điều mà anh muốn nói với Jane, rồi học thuộc lòng chúng. Anh đã dành ra hàng đêm trời để hoàn thành thứ đó - thứ mà đối với anh là một lời xin lỗi chỉnh chu, một điều mà Jane xứng đáng nhận được từ anh - còn tôi phần nhiều lại thấy nó cứng ngắc và máy móc giống như một bài diễn văn tốt nghiệp vậy; anh là một người không giỏi thể hiện cảm xúc của mình thông qua lời nói. Nhưng dù có thế nào, Tom vẫn chưa từng một lần nhờ vả tôi sửa lại giọng văn cho anh, mặc dù chính anh cũng nhận ra là nó tệ, và cá nhân tôi cũng không hề có ý định sẽ giúp anh làm điều đó. Bởi trên hết, dù cách dùng từ của anh có cứng ngắc và máy móc tới mức nào đi chăng nữa, thì chúng cũng xuất phát từ những sự chân thành nhất trong trái tim anh, và đó mới chính là con người thật sự của anh.

       Rồi buổi tối hôm ấy cuối cùng cũng đến. Từ đầu tuần, Jane đã thông báo cho tôi biết trước đó sẽ là một bữa tối đơn giản giữa bốn người tại nhà của Elliott. Chị đặc biệt yêu cầu tôi phải đem tới món bánh hạnh nhân sô-cô-la - những chiếc brownies vuông vắn béo ngậy mà chị rất yêu thích, do chính tay tôi nướng. Tính cách của tôi ít nhiều giống bố hơn là giống mẹ, song tôi có thể tự hào nói với bạn rằng tôi đã may mắn được thừa hưởng phần phẩm chất tốt nhất tới từ người mẹ đáng mến của tôi - một loại phẩm chất nghệ thuật tới từ tính tỉ mẩn và đôi bàn tay khéo léo của người đầu bếp. Bạn có thể gọi mẹ tôi là một người đầu bếp giỏi, bà nấu ăn thực sự ngon, và mặc dù những vị khách hàng thân thiết nhất của bà hầu hết là những thành viên đến từ gia đình tôi, cùng với con Chester già - kiểu khách hàng mà bạn mặc định sẽ nhận được những lời tán thưởng vì lòng trắc ẩn và tính cảm thông. Nhưng ngay cả với điều đó cũng không ai có thể phủ nhận bà là một người đầu bếp tài năng.

        Năm giờ chiều, tôi và Tom ở trong căn hộ của tôi cùng sửa soạn để chuẩn bị qua nhà Elliott. Anh mở lời hỏi mượn chiếc sơ-mi của tôi vì những cái của anh đã sờn cũ. Tôi mở cửa tủ và lấy ra chiếc áo mà tôi yêu quý nhất, chiếc sơ-mi Ermenegildo Zegna đắt tiền mà tôi chỉ dám mặc trong những dịp đặc biệt. Tôi cẩn trọng nhấc chiếc áo ra khỏi móc treo, sau đó giúp anh luồn tay qua hai tay áo, và cả hai chúng tôi đều phải lấy làm hết sức ngạc nhiên khi hóa ra nó lại rất vừa vặn với anh, dựa trên sự chênh lệch hình thể giữa hai chúng tôi.

        “Nó mịn quá.” Tom miết ngón tay lên thân áo, hết lòng khen ngợi. “Cảm giác giống như anh đang khoác mây trên người ấy. Chắc em phải tốn kha khá cho nó đấy nhỉ?”

        Tôi giúp Tom cài cúc áo. Biết anh mê mẩn chiếc áo, tôi thực sự vui. “Nó hợp với anh lắm. Nếu anh thích thì nó là của anh luôn đấy.”

        Anh nhe răng cười với hai hàng lông mày nhấc bổng lên, hai bên gò má căng phồng. “Em thật lòng đấy chứ?”

      Tôi bắt trước Tom miết ngón tay lên chiếc sơ-mi (anh nói đúng, nó mịn thật, và tôi gần như đã quên béng đi mất cảm giác này vì từ lâu đã không còn động đến nó), giống như thể gửi lời tạm biệt của tôi tới một kỷ vật quan trọng lần cuối cùng trước khi cả hai chúng tôi chia xa. “Em nói thật đấy, Tom. Nó chỉ là một cái áo thôi mà.”

        Ra ngoài phòng khách, tôi xách túi giấy đựng bánh nướng trên tay và với lấy chìa khóa xe ô tô trên mặt bàn trà. “Chúng ta sẽ đi xe của em nhé?” Tôi đánh tiếng hỏi.

       Tom không có phản ứng gì, mặc dù anh đứng ngay cạnh đó. Khi tôi quay đầu lại thì thấy anh đang mơ màng ngắm nhìn hình ảnh phản chiếu của mình trên thân chai rượu mà chúng tôi đã mua lúc trưa nay để làm quà đến chơi nhà cho Elliott.

        Tôi bước lại gần chỗ anh và hỏi, “Mọi sự ổn không anh?”

       Tom giật nảy mình. Tôi thậm chí còn có thể cảm nhận được cú giật mình từ anh truyền qua tôi, với hai mắt anh mở lớn tới mức bàng hoàng. Giống như thể anh vừa tỉnh dậy khỏi một cơn ác mộng kéo dài.

        Tôi ân cần hỏi han anh lần nữa.

      Anh nở một nụ cười chữa ngượng, nói khẽ qua kẽ răng. “Đã quá muộn để rút lui rồi nhỉ?”

        “Cho cái gì?”

        Anh thở ra. “Em hiểu ý anh mà.”

     Phải. Tôi hiểu. Tôi cũng hiểu không phải là anh đang tìm đường chạy trốn, mà chỉ là anh đang bị nỗi sợ hãi phút cuối lay động, và tất cả những gì anh cần là một cú hích. Tôi nhìn thẳng vào mắt anh. “Không phải là quá muộn, mà vốn dĩ ngay từ đầu anh đã không có đường lui trong chuyện này rồi,” tôi nói. “Nhưng anh cũng biết đây là cách duy nhất mà, phải không? Anh cần phải làm chuyện này. Vì sự công bằng cho Jane.”

       “Anh biết,” anh nói. Trông anh có vẻ tự ái, bối rối, xen lẫn một chút sợ sệt. “Em có nghĩ Jane còn giận anh không?”

       “Hỏi gì mà ngốc thế? Còn hơn cả giận ấy chứ. Điều đó rành rành ra mà,” tôi nói. “Và chắc chắn là hôm nay, chị ấy sẽ nhân cơ hội này để ném toàn bộ những gì từ trước tới nay mà chị ấy phải dồn nén trong lòng hết lên trên đầu anh cho mà xem. Nhưng chúng ta không thể trách Jane được, bởi vì chị ấy có quyền làm điều đó.”

        Hơi thở của Tom nhanh chóng thay đổi: hồi hộp và loạn xạ, và tôi có thể nghe thấy tiếng gửi lời cầu cứu của anh tới Thượng Đế vang lên trong đầu.

      “Nghe em nói này, Tom. Đừng quá lo lắng. Được chứ?” Tôi chờ anh trao anh mắt cho tôi rồi mới nói tiếp. “Bất luận buổi tối hôm nay có diễn ra thế nào, em sẽ ở đó cạnh anh, và hai chúng ta sẽ cùng nhau trải qua điều này. Được chứ? Em hứa sẽ không để anh đối mặt với nó một mình đâu.”

        Anh dần ổn hơn khi được tôi vỗ về. “Được,” anh nói, rồi hôn tôi. “Anh yêu em.”


18


        Elliott sống trong một ngôi nhà hai tầng có lối kiến trúc Địa Trung Hải với những hàng cọ bao quanh trên đường Fermoore, một trong những khu đất đắt giá nhất tại San Fernando. Sự chú ý của tôi hướng đến cửa hàng hoa vẫn còn mở cửa ngay phía bên kia con phố khi trời đã tối sẩm, bên cạnh một quán ăn gia đình kết hợp với tiệm cà phê. Đậu xe tại đầu lối đi, chúng tôi nhìn ánh đèn từ trong nhà hắt ra bằng cả một sự hồi hộp lẫn hào hứng.

      Tôi khoác tay Tom bước đi. “Chà, có vẻ như sau anh, Jane đã tìm thấy Bruce Wayne của đời mình.”

        Anh mỉm cười. “Tốt cho cô ấy. Còn em thì mắc kẹt với anh.”

        “Em hoàn toàn hài lòng với điều đó.”

       Tôi bấm chuông cửa. Chừng ba mươi giây sau, Jane là người ra mở cửa cho chúng tôi. Hai chúng tôi chào hỏi nhau bằng một cái ôm và tôi ngửi thấy mùi tinh dầu ô-liu quen thuộc bay trên tóc chị.

       “Em mang brownies đến như lời chị dặn đây.” Tôi chìa túi bánh ra cho Jane xem, rồi nói tiếp. “Còn Tom mang theo rượu.”

        Tom nhút nhát, đứng chôn chân sau lưng tôi cả đoạn dài khiến tôi phải vươn người tới để kéo anh lại gần. Anh sau đó ấp úng, xoay chai rượu trong tay trước khi giơ nó ra phía trước Jane. “B-bọn anh mang theo cái này.”

        Jane khiên cưỡng cầm lấy chai rượu từ tay Tom, rồi mời chúng tôi vào nhà. Tôi mừng vì đã không có một sự thù hằn nào toát ra từ những cử chỉ và điệu bộ chứa trong giọng nói mà chị giành cho Tom. Đó là một tín hiệu tốt. Mặc dù cả hai hành xử như thể họ chỉ là những lạ mặt vừa người mới quen biết.

       “Ôi, anh nghĩ mình đã làm hỏng chuyện mất rồi,” Tom chán nản thì thào với tôi.

       “Bình tĩnh lại nào. Anh đang tự làm khó mình đấy,” tôi nói. “Hãy cứ làm như em đây này - cư xử tự nhiên nhất có thể, và cơ hội của anh sẽ tới.”

        Chúng tôi theo chân Jane vào trong phòng khách. Bên trong ngôi nhà là một khoảng không gian mở có tầm nhìn chạy thẳng ra sân trong, vô cùng khoáng đạt và thanh thoát. Tôi thích cái cách mà Elliott mạnh dạn lược bỏ hết các đồ nội thất rườm rà và thay thế vào chỗ của chúng bằng những chậu cây xanh. Chúng tôi ngồi xuống đi-văng theo lời mời của Jane, nơi đối diện với chiếc lò lửa xây bằng các khối đá có màu vàng nhạt của nắng và vữa trắng. Phía trên đầu chúng tôi là một chiếc đèn lồng đan từ mây tre. Cách đó không xa, nơi chiếc hốc lớn dạng cửa vòm được khoét sâu vào bên trong tường, là chỗ đặt tivi màn hình phẳng.

        Jane toan mở miệng nói một câu gì đó với chúng tôi (tôi nghĩ là chị định hỏi chúng tôi muốn dùng cà phê hay dùng trà), thì giọng nói của một người đàn ông vọng ra từ phía sâu trong nhà cắt lời chị. Elliott. “Các chàng trai đã đến rồi hả em?”

        “Vâng, họ đã đến cả rồi,” chị trả lời.

      Có tiếng đế dép quét xuống sàn nhà. Khoảng chừng năm giây sau, Elliott bước ra khỏi một căn phòng (nhà bếp) từ chỗ vách tường hướng sau lưng chân cầu thang dẫn lên tầng hai và chào đón chúng tôi. Anh ấy lúc này đang mặc một chiếc tạp dề màu đen bằng vải quấn quanh eo, bận rộn với công việc mà anh đang làm trong bếp. Elliott cao xấp xỉ Tom, với mái tóc tối màu được chải ngược ra sau vẻ lãng tử, và nụ cười đậm chất Hollywood của anh làm tôi liên tưởng tới thời trai trẻ của tay diễn viễn điển trai Jude Law. Chúng tôi chào hỏi nhau bằng những cái bắt tay. Cả ba người chúng tôi. Elliott, Tom và tôi.

        “Tôi không biết là anh cũng nấu nướng đấy, Elliott,” tôi nói.

       “Đó chỉ là một trong những điều bất ngờ nhỏ của tôi thôi,” anh ấy đáp, làm ra vẻ bí ẩn. “Nick này, cậu biết không, tôi đã rất nóng lòng được gặp mặt cậu đấy. Bởi vì Jane cứ khoe khoang mãi với tôi về tay nghề nấu nướng của cậu.”

        “Thật thế ư?” Tôi giả bộ không tin. “Tôi đoán là chị ấy chỉ đang tỏ ra rộng lượng mà thôi. Thế chị ấy đã nói gì?”

        “Ừm… Là gì nhỉ?” Elliott gãi cằm, suy ngẫm một hồi. “À, là: không tồi chút nào.”

        Tôi và Elliott bật cười như thể câu nói đó thực sự hài hước. Và tôi nói, “Tôi biết, tôi biết. Tôi biết điều đó nghe tầm thường thế thôi, nhưng lại là lời khen ngợi đắt giá nhất mà người chị yêu quý của tôi đây có thể dành tặng cho một ai đó đấy.”

       “Ồ, tôi biết vậy chứ,” Elliott nói, và đặt lên eo của Jane đầy tình cảm. “Chính vì thế, tôi mới muốn cậu nếm thử tay nghề của tôi tối nay và cho ý kiến hơn tất thảy.”         

       “Anh vừa đặt một chân vào ổ kiến lửa đấy Elliott,” tôi bông đùa. “Nhưng dựa trên mùi thơm bay ra từ bếp xem chừng rất hứa hẹn đấy. Chúng tôi may mắn được tiếp đãi món đặc biệt gì thế này?”

        “Bò Wellington,” anh ấy hào hứng nói, hất tay mời gọi chúng tôi đi theo anh. “Đi nào. Món ăn cũng sắp xong rồi đấy.”

       Elliott và Jane đi trước. Tôi quay lại để nắm lấy tay Tom và tình cơ bắt gặp ánh mắt lo sợ như thể trong một khoảnh khắc, anh đã nghĩ rằng tôi sẽ bỏ rơi anh lại nơi này một mình.  

        “Được rồi, Tom. Phải thừa nhận là trông vẻ mặt của anh lúc này rất đáng yêu. Nhưng chúng ta cần phải dừng kiểu hành động nhút nhát này lại và giải quyết cho xong những gì cần phải giải quyết. Được chứ?”

       “Anh biết. Anh biết,” Tom cười khổ sở, hai bên tai anh đỏ ửng lên vì loạt phản ứng trong cơ thể. “Chỉ là, đối mặt với cô ấy… Ngay cả những lúc nguy cấp nhất trong công việc, anh cũng không cảm thấy căng thẳng như thế này.”

       “Em không thể lên tiếng thay cho anh, nhưng đối với em, điều đó càng chứng tỏ bản thân anh thực sự muốn làm chuyện này. Những kẻ sợ hãi nhất là những kẻ có quyết tâm lớn nhất, đúng chứ?”

     Tom mím chặt môi lại, gật đầu và nhìn tôi lâu hơn mức bình thường. “Em đã ở đâu suốt cuộc đời anh vậy?”

        “Tìm kiếm anh trong quán cà phê và hiệu sách.”

     Bữa ăn được bắt đầu sau đó nửa tiếng. Bốn người chúng tôi ngồi trên bàn ăn dài đặt gần lối đi hướng ra sân vườn của nhà bếp. Tôi ngồi đối diện với Jane còn Tom đối diện với Elliott. Bên ngoài, những cơn gió thổi nhẹ, đưa mùi hương man mát của đám cỏ mới cắt bay vào trong nhà. Mười phút đầu của bữa ăn là khoảng thời gian những điều cũ được ôn lại: chuyện tay nghề nấu ăn của tôi và Elliott, cùng món bò Wellington của anh ấy. Elliott bảo với tôi rằng phải thử đến lần thứ năm, anh ấy mới có thể cho ra đời một món bò Wellington có kết cấu và hình dạng ưng ý sau khi cắt, nghĩa là chí ít những lớp nhân vẫn còn dính chặt với lớp vỏ bánh bên ngoài, và phải đến lần thử thứ mười của anh, tất cả mọi thứ mới được hoàn hảo. Tôi bảo với anh rằng tôi đánh giá cao sự kiên trì và sự tiến bộ nhanh chóng trong khoản nấu nướng của anh, tương tự như tôi đánh giá lớp vỏ bánh vàng nâu sáng bóng như màu hổ phách của món bò Wellington đang nằm trên đĩa thức ăn của chúng tôi.

        Rồi. Đến một lúc, Elliott bắt chuyện với Tom. “Tom, tôi nghe nói cậu là một điều tra viên, nhỉ?”

        Tom đứng hình mất mấy giây. “Vâng, đúng vậy. Tôi là một điều tra viên,” anh nói thật nhanh như thể cho có lệ, để anh có thể thu mình về lại với chiếc vỏ ốc của riêng anh. Hãy tiếp tục đi, tôi đã trao cho anh một ánh mắt khích lệ. Và anh nói tiếp. “Nhưng nó không phải lúc nào cũng… mộng mơ và đầy tính phiêu lưu như trên phim ảnh đâu.”

        “Phim ảnh có bao giờ phản ánh đúng với đời sống thực tế không?” Elliott đùa giỡn.

       Tom bật cười, nụ cười đầu tiên của anh trong buổi tối hôm đó. Và tôi có thể cảm thấy anh được là chính mình mỗi khi nụ cười trên môi anh hé mở. “Tôi đồng ý.”

        “Vậy nó thế nào?”

      Tom hắng giọng. “Có lần làm nhiệm vụ này, tôi đã phải sống lang thang trên phố dưới vỏ bọc của một người vô gia cư trong gần một tháng trời, cốt chỉ mong lấy được thông tin tối mật từ một gã này, để phục vụ cho một vụ trọng án mà chúng tôi đang điều tra.”

       “Thế cuối cùng cậu có lấy được thông tin đó không?”

       “Mừng là tôi có.” Rồi anh bổ sung thêm. “Tuy nó không dễ chịu gì, và khá là… ghê răng nữa. Nhưng cuối cùng thì tôi vẫn lấy được thứ mà chúng tôi cần.”

       Elliott tỏ ra nóng lòng. “Thôi nào, chớ có dừng lại giữa chừng như thế chứ. Cậu đang giết chết tính tò mò của tôi đấy. Nhân tiện đây, tôi là một người hâm mộ lớn của Agatha Christie đấy. Thế bằng cách nào mà cậu lấy được thông tin đó?”

      Tom nhấc cả hai hàng lông mày của anh lên. “Đại loại thì tôi đã chiếm được lòng tin của gã bằng cách… chén ngon lành hết đống thức ăn thừa mà chúng tôi câu được trong một bọc thực phẩm bỏ đi phía sau một cửa hàng In-N-Out Burger.”

        “Ồồồ, anh bạn là tuyệt hết nước chấm đấy.”

       “Tôi xin nhận lời khen ngợi của anh. Song những gì tôi làm thực tế chẳng to tát đến thế đâu,” Tom khiêm tốn nói.

        “Thế cậu còn chuyện gì hấp dẫn nữa không?”

      “Nếu tôi kể hết về những nghịch cảnh mà tôi phải trải qua suốt sự nghiệp của mình, e rằng sẽ kéo dài đến tận sáng mai mất. Tôi nghĩ là anh hiểu điều này, Elliott. Anh là một bác sĩ mà, phải thế không? Các tình huống éo le cứ từ trên trời rơi xuống đầu chúng ta suốt.” Elliott gật đầu, và Tom tiếp tục, “Nhưng nói chung chung thì tôi có thể kể cho anh nghe về những áp lực - chúng cũng chẳng phải một chuyến du ngoạn đẹp đẽ gì. Áp lực về thời hạn, áp lực từ dư luận xã hội, áp lực từ những khó khăn, thách thức, hay về sự an toàn của chính những người thân bên cạnh chúng ta. Chỉ cần một trong số chúng bị đánh bại, tất cả chúng sẽ dẫn ta đến một hệ quả tàn khốc. Tuy nhiên, áp lực không hẳn chỉ toàn những mặt tệ. Bản thân tôi là một người luôn làm việc hiệu quả hơn khi phải chịu áp lực.”

        “Tôi đồng ý với cậu, Tom. Áp lực tồn tại là để thúc đẩy nhân loại chúng ta. Và đúng thế, tôi là một bác sĩ ngoại khoa, chuyên ngành phẫu thuật tổng quát,” Elliott nói. “Tính đến nay, tôi đã tham gia thực hiện hàng nghìn ca phẫu thuật trong đời. Cậu có thể nói là tôi đã quá quen thuộc với công việc này, công việc… cậu hiểu ý tôi mà, đúng chứ? Thật không hay khi nói từ đó ra một khi chúng ta còn đang ngồi trong bàn ăn thế này.” Tom gật đầu, trong khi tôi tập trung vào đĩa thức ăn, còn Jane thì uống rượu vang đỏ từ ly. Nhưng tất cả chúng tôi đều hiểu cái từ mà Elliott tránh nói ở đây là gì: mổ xẻ cơ thể người khác. “Song phải thừa nhận với cậu, cho dù tôi có thực hiện thêm cả nghìn ca phẫu thuật nữa, tôi vẫn cảm nhận được một sự áp lực đặc biệt rõ mỗi khi đặt tay lên con dao mổ. Và vâng, mừng là tôi có thể nói như cậu, tôi cũng là một người làm việc hiệu quả hơn khi phải chịu áp lực.”

      “Kinh nghiệm không giúp ta loại bỏ áp lực. Chúng chỉ ngăn ta không tự biến mình thành những kẻ ngu,” Tom nói.

       “Anh bạn vui tính quá thể!” Elliott bật cười, và tôi cảm thấy anh thân thiện với Tom thực sự, chẳng hề giống tí nào cái gã bặm trợn mà tôi đã tưởng tượng ra trong đầu trước khi tôi chính thức gặp mặt anh - cái gã lúc nào cũng sẵn sàng lao vào để bụp nhau với Tom ấy. Đấy trong trường hợp Tom có ý đồ bắt nạt Jane. Rồi anh hỏi: “Thế còn sự hối tiếc thì sao? Đã bao giờ anh phải đối mặt với nó trong suốt sự nghiệp chưa, Tom?”

        “Anh muốn hỏi về sự hối tiếc ư?” Tom có hơi ngạc nhiên, và giọng anh có vẻ như không tin vào những gì mình vừa nghe thấy. “Chà, đạo đức nghề nghiệp của tôi cứ bị giáng xuống một đòn đánh nghiêm trọng mỗi khi ai đó nhắc đến từ này, nhưng tôi phải công nhận là có. Rất nhiều nữa là đằng khác.”

        “Nó là một phần cuộc sống mà, phải không?”

      “Phải, nó là một phần của cuộc sống,” Tom nói, có một khoảng ngắn lưỡng lự trước khi anh tiếp tục, “Cái tên Sofia Rodriguez có gợi nhớ chút gì cho anh không, Elliott?”

      “Có phải là cô gái mười sáu tuổi bị mất tích và được tìm thấy tại WilseyVille tám năm về trước không?” Câu trả lời của Elliott bật ra khỏi miệng anh một cách tự động. “Vụ đó nổi tiếng quá trời. Tôi bị ấn tượng mãi với chi tiết gã sát nhân đã nuốt liều thuốc độc mà gã khâu vào tay áo khoác để tự vẫn khi gã bị bắt. Đầu óc gã bệnh hoạn hết sức, nhưng không thể phủ nhận gã là một tên cáo già. Gã đã tính toán đến tận nước chết của mình rồi cơ đấy.”

      “Phải, đúng là vụ đó đấy,” Tom nói, giọng anh chùng xuống như một người mang tội. “Sofia có thể bây giờ vẫn còn sống, nếu không vì sự tắc trách của chúng tôi.”

        Tom chưa bao giờ kể với tôi việc anh cũng tham gia điều tra về vụ án mạng nổi tiếng này. Tôi quay phắt sang nhìn anh, còn Elliott thì há hốc. “Cụ thể sự tình ra sao?” Elliott hỏi.

        Tom đặt dao nĩa trên tay anh xuống bàn. Rồi anh uống một ngụm rượu và hít vào phổi một làn hơi đầy. Cho đến khi anh thực sự sẵn sàng. “Tôi vẫn chỉ là một tay chạy việc vào thời điểm đó và không có quá nhiều quyền hạn để tham gia sâu vào một vụ điều tra. Nhưng khi chúng tôi tình cờ bắt quả tang một người đàn ông tên Jonathan Bernstein vì tội ăn trộm trong một cửa hàng kim khí. Chúng tôi đã phát hiện ra hắn đang sử dụng chiếc bán tải và giấy phép lái xe của một người đàn ông được báo cáo mất tích cách đó từ vài tuần trước. Bernstein bị bắt sau khi chúng tôi kiểm tra cốp xe của hắn và tìm thấy một khẩu súng được trang bị bộ giảm thanh bị cấm. Nhưng phải đến khi hắn tự tử bằng thuốc độc bốn ngày sau đó, chúng tôi mới tiến hành đào sâu vào lai lịch của hắn. Hóa ra Bernstein là một tên tội phạm khét tiếng, một kẻ nghiện tình dục hạng nặng, và hồ sơ của hắn đã được trong lưu trữ trong dữ liệu của Cục điều tra liên bang. Trong bản báo cáo có ghi rõ, Bernstein đã từng tống tiền những người chị gái của hắn để bắt họ phải chụp ảnh khỏa thân và đóng những thước phim khiêu dâm do chính hắn đạo diễn. Bên cạnh đó, hắn còn từng được ghi nhận với tội danh tấn công tình dục những đồng nghiệp nữ tại nơi mà hắn làm việc, và thậm chí đã từng phải trải qua một cuộc điều trị tâm thần ép buộc vì những ảo ảnh hoang tưởng điên rồ liên tục bùng nổ trong đầu hắn. Vào thời điểm tám năm về trước, khi mà vụ mất tích của Sofia Rodriguez lúc này đang được người dân cả nước theo dõi, chúng tôi đã quá tập trung vào những giả thiết và phương hướng điều tra về vụ mất tích của cô bé mà không hề để tâm đến Bernstein. Chúng tôi không thể ngờ được rằng hóa ra chìa khóa của vụ án mà chúng tôi tìm kiếm lại đang nằm chính trong lòng bàn tay mình. Lệnh khám xét được ban ra không lâu sau cái chết của Bernstein. Khi tìm đến ngôi nhà gỗ của hắn tại WilseyVille, chúng tôi đã phát hiện ra một hầm ngục rộng 8 mét vuông nằm sâu trong lòng đất, được ngụy trang cẩn mật bằng một lối đi bên dưới bồn cầu buồng vệ sinh nhà hắn. Tổng cộng mười một cái xác đã được phát hiện trong hầm ngục đó, bao gồm chủ nhân xấu số của chiếc bán tải và Sofia Rodriguez. Đó là một vết nhơ không bao giờ có thể xóa bỏ trong lịch sử của Sở cảnh sát địa phương. Sếp của tôi - Đại úy Helton đã phải từ chức ngay trong đêm hôm đó để xoa dịu dư luận. Sofia đã được xác nhận mới chết cách đó 10 giờ đồng hồ, nghĩa là ngay trong buổi sáng hôm đó, khi chúng tôi còn đang quay cuồng tìm cách điều trị cho tên khốn Bernstein, cô bé vẫn còn sống. Nguyên nhân tử vong của cô bé là suy dinh dưỡng cực đoan và tổn thương đa tạng trầm trọng, vì không được ai tiếp tế thức ăn và nước uống trong nhiều ngày liền.”

       Giọng Tom vỡ ra ở những chữ cuối, và đôi mắt như sắp khóc của anh nhìn chằm chằm vào hình ảnh phản chiếu của anh trên thân ly rượu như thể tự buộc tội chính mình. Tôi đặt một tay lên lưng Tom, xoa nhẹ và vỗ về an ủi anh. Bao vây bốn người chúng tôi trong gần một phút sau đó hầu hết là sự câm lặng. Cho tới khi Jane quyết định lên tiếng và phá vỡ thế im lặng đó.

        “Em đã nói rất nhiều lần với anh về chuyện này rồi, Tom. Anh phải ngừng đổ lỗi cho bản thân.” Giọng chị tuôn ra nhanh và vội như thể một lời trách móc, nhưng thực chất là cố trấn an anh. “Đó là một chuyện không ai mong muốn, nhưng nó đã xảy ra rồi. Anh không thể đổ dồn hết mọi tội lỗi lên đầu anh được, vì chính bản thân anh cũng biết ngay cả sự cố gắng quyết liệt nhất của anh không đủ để thay đổi bất cứ kết quả nào cả.”

        Tom ngước mắt lên nhìn Jane. Cũng như anh, cả tôi và Elliott, đều rất bất ngờ khi thấy chị cất tiếng. “Phải, em đã dặn dò anh điều đó rất nhiều lần, Jane. Anh xin lỗi.”

      “Đừng có lúc nào cũng nói xin lỗi như vậy, Tom. Em chỉ không muốn thấy cảnh anh tự làm khổ chính mình mà thôi.”

         “Anh hiểu ý tốt của em, Jane. Liệu anh–”

        Điều tiếp theo nằm ngoài sự dự đoán của tất cả chúng tôi. Jane bất ngờ đưa tay ra phía trước mặt chị để chặn họng Tom. “Không. Tom. Không!” Giọng chị đầy quyết liệt. “Em có thể gọi tên anh nhưng anh không được phép gọi tên em cứ như thể giữa hai chúng ta đã không có bất cứ điều gì xảy ra như vậy được.”

        “Anh sẽ làm theo nếu đó là điều em muốn, Jane. Nhưng xin em hãy cho phép anh được–”

        Jane sửng cồ lên. “Cái gì, Tom? Cho phép anh được làm cái gì?”

        “Cho phép anh được làm điều đúng đắn, Jane. Cho phép anh được nói–”

        “Nói gì, Tom? Anh muốn nói cái gì?

      Jane càng lớn tiếng, tôi càng cảm nhận được nỗi sợ hãi choán hết tâm trí Tom. Nỗi sợ hãi đó dường như đã biến thành một sinh vật hữu hình, bám thân hình xù xì của nó trên hai vai anh và siết chặt đôi bàn tay gớm ghiếc của nó bao quanh cổ họng anh, khiến anh không tài nào mở lời được.

         “A-anh…”

      Jane chỉ thẳng ngón tay vào mặt Tom, dứt khoát. “Không. Tom. Không. Anh không được phép nói với em bất cứ một điều gì cả! Mười bốn năm qua, mười bốn năm trôi qua, em đã chấp nhận giấu đi giọng nói của mình để ở phía sau anh, nhẫn nhịn đủ điều để hỗ trợ anh trở thành người đàn ông tuyệt vời của hiện tại. Vậy mà điều em nhận được lại cho sự hy sinh của mình là gì? Không gì cả. Vì thế, ngày hôm nay, em sẽ là người được quyền nói lên giọng nói của mình và anh chỉ được phép lắng nghe mà thôi. Không gì nhiều hơn ngoài lắng nghe cả, Tom ạ. Anh có hiểu điều đó không?” Chị nhấn mạnh với anh, và nước mắt chị rơi xuống. “Anh đã tổn thương em nghiêm trọng đấy, Tom ạ. Anh đã tổn thương em nghiêm trọng đấy. Cho nên việc anh muốn đến đây hôm nay, để đứng trước mặt những người mà em yêu quý và đòi hỏi một sự tha thứ từ em, là một việc làm cực kỳ nhẫn tâm. Anh không có tư cách gì để đòi hỏi một sự tha thứ từ em hết. Anh đã tổn thương em cực kỳ nghiêm trọngđâý. Nhưng anh có biết điều đã tổn thương em nhất là gì không? Đó không phải là chuyện anh là một người đồng tính, hay việc anh đã lừa dối em suốt mười bốn năm qua, mà là em không thể nghe được từ chính miệng anh nói về con người thực sự của mình. Tại sao anh lại đối xử với em như thế, Tom? Phải chăng đó là lỗi lầm gì xuất phát ở nơi em sao? Hay là em đã có hành động nào không phải hoặc nói ra điều gì đó sai trái để anh không đủ tin tưởng vào em? Hành động đó của anh đã thực sự tổn thương lòng tự trọng của em rất nhiều đấy, Tom ạ. Em rất đau đớn.

        “Jane, anh thành thật xin lỗi,” Tom sụt sịt khóc. Anh thậm chí còn không dám nhìn vào đôi mắt của chị, cảm thấy ánh mắt chị như một nghìn mặt trời với sức cháy huỷ diệt đang rọi xuống anh cùng lúc. “Em không có lỗi gì trong chuyện này cả. Là tại anh đã quá ích kỷ, yếu đuối và hèn nhát.”

         Jane đứng bật dậy. Chị gần như phát rồ cả lên sau lời giải thích của Tom. “Anh đang không lắng nghe em, Tom. Em đã bảo anh không được phép nói bất cứ điều gì cơ mà!”

        Tom nuốt chửng những lời mà anh sắp sửa nói ra ngược vào trong dạ dày, tròn mắt nhìn Jane với hai hàng mi ngấn nước.

        “Em căm ghét anh Tom. Em muốn nói là em căm ghét anh và tạ ơn Chúa, em đã nói ra được điều đó.” Nói xong, Jane lấy tay che đôi mắt ướt nhòa của chị và rưng rức khóc. Rồi ngay đến chị cũng không thể giữ nổi sự cứng rắn ban đầu nữa. “Nhưng điều đó càng khiến em căm ghét bản thân mình hơn, bởi vì em hoàn toàn chỉ đang cố lừa dối chính mình. Bất luận điều đau đớn gì anh đã gây ra cho em, em vẫn không thể ngừng yêu thương anh được. Nó giống như là một sự nguyền rủa của cuộc đời em vậy. Anh nên biết là anh đã tổn thương em nghiêm trọng và anh hoàn toàn không có tư cách gì để đòi hỏi một sự tha thứ từ em cả, Tom ạ. Nhưng vì em yêu anh, nên em sẽ chọn cách tha thứ cho anh. Bởi vì đó mới chính là con người của em, và đó là điều mà em sẽ làm để bảo vệ cho những thứ mà em yêu quý, ngay cả khi nó khiến em đau. Em sẽ tha thứ cho anh, nhưng không phải là bây giờ. Bây giờ, em cần thời gian để vết thương của em được chữa lành, và anh không được phép đòi hỏi bất cứ điều gì từ em nữa.” Có một quãng dừng khoảng năm giây mà Jane ngừng lại để lấy sức. “Hãy giữ lại lời xin lỗi của anh, Tom. Em không muốn được nghe thấy lời xin lỗi của anh mặc dù em biết mình xứng đáng với điều đó. Em cũng không muốn nghe thấy anh nói lời xin lỗi này với bất cứ người nào khác, chỉ vì anh lựa chọn được sống đúng với con người của chính mình. Và em muốn anh biết rằng, em thật lòng hạnh phúc cho anh vì điều đó.”

        Tôi nhìn Jane suốt một lúc lâu và mỉm cười. Cô gái của tôi tuyệt vời như thế đấy. Sự bùng nổ của chị có thể nghe rất điên rồ trong một khoảnh khắc, nhưng đó lại là cách mà chị thể hiện đúng với con người trong lời nói của chị. Thay vì để Tom chới với và để anh chết chìm trong sự hỗn loạn khó xử chứa trong đầu anh, chị đã chọn cách cứu vớt anh khỏi con thuyền đang đắm và đưa anh về một nơi an toàn. Đúng như lời chị đã nói, chị đã chọn cách giành hết phần khó về phía mình để bảo vệ Tom, bảo vệ cho thứ mà chị yêu quý, ngay cả khi nó khiến chị đau. Và trong mắt tôi, điều đó càng làm chị trở nên vĩ đại hơn nữa.


0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout