Tôi đã từng nhắc đến Benjamin Becker - cậu bạn cũ mà Tom cảm nắng hồi hai người học lớp tám, thông qua một cuộc trò chuyện cùng anh ấy - bạn còn nhớ không? Thôi thì để cho câu chuyện được tiếp tục, tôi xin mạn phép được nhận định là bạn còn nhớ nhé, vì dù sao thì trí nhớ của những người trẻ tuổi như bạn vẫn còn khá hơn cái đầu già cả của tôi những mấy lần. Hay hãn hữu nếu có gặp phải trường hợp người đang đọc cuốn sách này cũng là một “cái đầu già cả” như tôi đây, thì tôi mong bạn hãy vui lòng xuê xoa bỏ qua cho nhau để chúng ta được tiếp tục.
Benjamin Becker là con của một người lái buôn, tôi chắc chắn thế, song xin thứ lỗi nếu bạn có muốn biết chính xác là người cha ấy buôn gì, thì cái đầu già cả của tôi bây giờ nhất định không chịu nhớ ra được. Bạn sẽ hiểu tình cảnh này, khi bạn chạm tới cái ngưỡng tuổi của tôi. Hễ cứ đến cái ngưỡng tuổi này là đầu óc lại bắt đầu nhập nhèm, khổ thế đấy. Nhưng ngay cả vào cái năm 2019, thời điểm mà Tom có cơ hội được gặp lại Ben một lần nữa, tôi và anh đã dành hẳn ra một buổi tối để ôn lại và đào sâu hơn vào mối tình đơn phương này của Tom, thì anh cũng chẳng còn nhớ chính xác là cha của Ben buôn bán gì. Riêng về vấn đề này thì tôi cho là bạn hiểu, vì tính ra thì cái năm 2019 năm đó, Tom đã ba mươi ba tuổi, nghĩa là anh đã đi qua gần hết một nửa cuộc đời người rồi còn gì. Vậy thì thử hỏi mấy ai còn nhớ nổi những chi tiết nhỏ nhặt từ gần hai mươi năm về trước trong cuộc đời họ nữa?! Đấy là tôi nói vui miệng thế thôi, chứ nếu bạn còn nhớ những chi tiết nhỏ nhặt về cuộc đời bạn từ gần hai mươi năm về trước thì tôi đây xin chúc mừng: bạn đã có một trí nhớ siêu phàm rồi đấy.
Tôi hình như đang bắt đầu lan man rồi thì phải. Có phải thế không? Con bé Angie nhà tôi (cô con gái bé bỏng của tôi và Tom, tôi đã kể cho bạn ngay trên kia, ở những dòng đầu tiên khi chúng ta bắt đầu cuốn sách này rồi, bạn còn nhớ chứ? Nhưng nếu bạn không còn nhớ thì cũng chớ có lo, vì con bé là một phần rất quan trọng của cuộc đời tôi và tôi thế nào cũng kể cho bạn nghe sau này) vẫn luôn càu nhàu cái tính của tôi là chúa lan man trước khi đi vào vấn đề chính (không sao, tôi ổn. Tôi biết con bé yêu tôi mà, và bố cũng rất yêu con, Angie!). Giả sử như cái lần tôi kể với lũ bạn học của con bé việc tôi đã gặp được Al Pacino tại một siêu thị. Thú thực tôi khá ngờ nếu lũ trẻ có thực sự biết Al Pacino là ai, nhưng đứa nào đứa nấy vẫn chăm chú lắng nghe tôi kể chuyện vì phép lịch sự tối thiểu mà chúng được dạy dỗ. Hơn cả thế, chúng thậm chí còn tỏ ra hào hứng cho tôi vui nữa cơ mà. Tôi nói điều này để các bạn có thể yên tâm, thế hệ trẻ em kế tiếp chúng ta là một thế hệ ưu tú về cả hai mặt giáo dục lẫn đạo đức. À mà suýt quên, tôi gặp Al Pacino lần này là thật hẳn hoi đấy nhé, chứ không phải như cái lần tôi nói khoác để trêu chọc anh Victor nhà tôi đâu. Chuyện chả là khi tôi đang chăm chú kể chuyện tôi đã bắt gặp Al Pacino như thế nào cho lũ trẻ tại phòng khách của chúng tôi, con bé Angie nhà tôi bỗng kêu lên như bị ai dẫm phải chân: “Ôi, bố thân yêu của con ơi! Mọi người không cần biết bố đi vào siêu thị để mua táo và bắt gặp một quả táo đột biến gen có kích cỡ to bằng một quả dưa lưới. Mọi người cũng không cần biết hôm đó thời tiết những ba nhăm độ C, hay ngoài trời đang nắng như đổ lửa bỗng nổi dông. Xin bố làm ơn hãy đi thẳng vào vấn đề, đi thẳng vào vấn đề giúp con, bố ạ. Bố đã bắt gặp Al Pacino đang tìm mua nước ép trái cây tại quầy bán rượu.” Tôi biết là con bé Angie đang xấu hổ về tôi trước mặt lũ bạn của con bé, và tôi xin xác nhận là tôi không hề cảm thấy giận hờn gì con bé cả, vì đứa trẻ nào mà chẳng thế. Tất cả chúng ta đều đã từng bị những ông bố bà mẹ làm cho xấu hổ trước mặt lũ bạn cứt của mình rồi. Đấy là tôi nói thật! Và chính cái sự nhấn mạnh “Chấm hết!” mà con bé Angie đã lên tiếng thay tôi để kết thúc câu chuyện tôi gặp Al Pacino trong siêu thị như thế nào, là một minh chứng rõ ràng nhất cho điều đó.
Rồi. Bây giờ tôi xin đi thẳng vào vấn đề. Tôi đã kể với bạn Benjamin Becker là con của một người lái buôn rồi nhỉ? Rồi, tôi đã kể. Đánh dấu. Nhớ nhé! Nào, giờ thì ta tiếp tục.
Ben mang một nửa dòng máu Do Thái từ bố. Anh có làn da hơi ngăm và một chiếc mũi thẳng cúi xuống trông giống như một cái móc, với hai chiếc cánh được nâng lên. Ở tuổi mười bốn, Ben tuy không cao bằng Tom nhưng cơ thể anh lại nảy nở hơn nhiều so với những đứa trẻ cùng trang lứa. Ben nhận ra mình đã bắt đầu có lông ở giữa hai khe ngực trước ngày sinh nhật một tuần, cùng lúc với đám lông tơ non mới chỉ hơi lún phún trên hai cẳng tay của những cậu trai mới lớn khác, và giọng nói của anh có xu hướng trầm và ồm hơn đa số bạn bè trong lớp học, chuyện xảy đến với anh sau một đợt mất giọng. Nhưng những thay đổi đó không đem lại quá nhiều ý nghĩa cho Ben ở cái tuổi mười bốn, hay giúp anh được đánh giá cao hơn những cậu trai cùng trang lứa khác. Rồi rắc rối bắt đầu xảy đến với Ben khi một trong số những đứa trẻ dần chú ý tới sự thay đổi nơi anh quá khác biệt so với chúng, là bởi vì cổ họng của chúng chưa xuất hiện yết hầu. Đồ Quái dị - đó là cái tên đã gắn liền với Ben suốt những năm tháng theo học tại Georgia, nhưng nó chưa một lần khiến anh ghét bỏ cơ thể mình, hoặc tệ hơn là tạo ra một ý chí tự hoại kiểu anh là một tạo vật xấu xí của Chúa Trời. Tất cả vì câu nói của một người bạn tốt nhất trên đời đối với anh. “Đừng nghe lời bọn chúng, và cũng đừng hoảng sợ,” Tom bảo. “Cơ thể cậu hoàn hảo như khi Chúa được sinh ra và mãi sau này sẽ vẫn thế.”
Ben và Tom bắt đầu trở nên thân thiết với nhau sau một lần Tom ra mặt giúp anh thoát khỏi vòng vây của lũ trai ngỗ ngược. Họ nhanh chóng trở thành bạn tốt của nhau vào đầu mùa thu năm đó. Họ giúp đỡ nhau nhiều mặt trong cuộc sống. Trong khi Ben dạy Tom về những con số và cách xử lý phương trình căn bậc hai, Tom dạy cho Ben cách sử dụng nắm đấm cùng những bài tự vệ. “Lũ bắt nạt nào cũng như nhau cả. Chúng sẽ tự động rụt cổ lại khi thấy ta biết phản kháng,” Tom nói. “Và đó sẽ là một màn trả thù ngọt ngào,” Ben hớn hở chêm vào, song Tom đã lập tức gạt bỏ ngay suy nghĩ ấy của anh bằng một cái nhìn nghiêm khắc. “Tôi không dạy cậu sử dụng nắm đấm để trả thù. Cách trả thù ngọt ngào nhất là sống tốt hơn những kẻ luôn cố gắng dày vò chúng ta.”
Khi mùa đông đến cũng là lúc những buổi ngủ qua nhà nhau của đôi bạn được bắt đầu. Một lần, bố mẹ Ben quyết giữ Tom ngủ lại nhà của họ trong một đêm trời trở gió kèm mưa lớn. Ông Becker đã chủ động gọi điện về nhà Tom để ra mặt xin phép bố mẹ anh, còn bản thân anh thì không tìm ra cách nào để chối từ cốc cacao ngon lành uống cùng kẹo dẻo mà bà Becker đã cất công chuẩn bị cho hai đứa. Suốt đêm hôm đó, Tom đã không ngủ tài nào được, và cả rất nhiều lần sau này cũng thế. Anh đã không tài nào ngủ được mỗi khi cùng với Ben nằm cạnh nhau trên một chiếc giường, dù nơi đó có là phòng ngủ của Ben hay trong tấm mền ấm áp chốn lãnh thổ của riêng anh khi tới lượt Ben qua nhà anh để ngủ lại; anh vẫn không tài nào ngủ được. Anh sẽ nằm yên tại đó thao thức cho tới sáng, ngắm nhìn ánh trăng dịu dàng len qua then cửa sổ, bên cạnh Ben, nhớ về cái lần đầu tiên khi anh phát hiện ra cảm giác ấy, cảm giác của một luồng điện chạy dọc qua anh khi những ngón tay của Ben tình cờ trượt qua cánh tay anh, trong lần đầu tiên họ nằm cạnh nhau trên chiếc giường đơn quá bé nhỏ để có thể đủ chỗ nằm cho hai thằng con trai đang tuổi lớn. Họ đã ở quá gần nhau. Quá sát. Sát tới nỗi đã khiến Tom lo sợ rằng, nếu không nhờ có tiếng kêu của lũ côn trùng ngoài vườn, Ben hoàn toàn có thể nghe thấy tiếng của trái tim anh đang đập mạnh.
Song bố của Tom lại không thực sự hài lòng khi thấy anh và Ben quá mức thân thiết như thế. Tuy ông không trực tiếp ngăn cấm, nhưng những lời răn vẫn được truyền đạt lại dù bằng cách này hay cách khác. Ông bảo với anh rằng nó quá kỳ khi ông thấy đứa con trai của ông và thằng bạn của nó ngủ với nhau trong tư thế úp thìa. Còn mẹ của Tom thì kịch liệt phản đối chồng. Bà bảo với ông rằng hãy để yên cho lũ trẻ được phát triển theo bản năng của chúng.
Tom luôn khẳng định với tôi đó là năm học trôi qua nhanh nhất trong cuộc đời cắp sách tới trường của anh ấy. Nó trôi qua nhanh tới nỗi anh không thể nhớ nổi mình đã được dạy những gì ngoài những con số và phương trình căn bậc hai mà anh được Ben truyền đạt lại. Khi năm học kết thúc, họ dành một nửa mùa hè bên nhau để bắt dế trên cánh đồng hoang trong những buổi chiều và nằm dài bên bờ cỏ xuyến chi khi trời sẩm tối, thách đố nhau ăn những con dế vừa mới bắt được, rồi lại thả chúng đi vì chẳng một ai trong số họ thực sự dám, sau đó lắng nghe Ben kể về công việc của cha anh và những lần anh phải chuyển nhà. Đó cũng là lần đầu tiên mà Tom nhận ra trong suốt quãng thời gian này, tình bạn của anh và Ben rất có thể sẽ không kéo dài bao lâu nữa. Một nửa còn lại của mùa hè, họ đã dành để khám phá cánh rừng phía sau nhà của Tom, phát hiện ra một dòng suối nhỏ, nước khá nông và trong, đoạn sâu nhất áng chừng cũng chỉ ngang đến bắp đùi, và cũng chẳng xa lối đi dẫn vào rừng là mấy. Nhưng cả hai chưa bao giờ thực sự đặt chân lên dòng suối. Ben thừa nhận với Tom rằng bản thân anh không biết bơi, sau đó anh bổ sung thêm chuyện nước gợi nhớ lại cho anh nỗi sợ có từ một lần suýt chết đuối thuở còn nhỏ. Thế là chuyện đi bơi nghiễm nhiên bị gạch tên khỏi danh sách vui chơi của hai đứa, song bản thân Tom chẳng cảm thấy phiền hà gì với điều đó, bởi vì họ vẫn có thể cùng nhau làm cả tỷ thứ khác trong khu rừng này. Họ bày ra trò nhóm lửa trại, rồi cùng nhau dựng lên một cái chòi kết từ những cành cây gãy và lợp mái cho nó bằng những tán cọ để phòng trừ trường hợp mưa có bất chợt đổ ập xuống, mặc dù cả mùa hè năm đó trời tạnh ráo.
Một ngày Chủ nhật nọ, cũng trong nửa phần còn lại của mùa hè cùng năm đó, Ben bỗng xuất hiện trước cửa nhà Tom từ sớm tinh mơ mà chẳng hẹn trước. Ben lễ phép gửi lời chào tới mẹ của Tom khi bà mở cửa, sau đó xông thẳng vào phòng của Tom trong lúc anh vẫn còn đang ngáy ngủ ngon lành, kéo anh ra khỏi giường, thúc giục Tom phải dậy ngay tức khắc, để họ có thể cùng nhau làm công việc mà họ đã thực hiện trong suốt cả mùa hè này: chạy nhảy trên cánh đồng hoang rộng mênh mông tìm bắt dế, nằm dài trên bãi cỏ xuyến chi khi cả hai đã mệt lử, khám phá khu rừng phía sau nhà Tom rồi chui vào trong pháo đài của riêng họ và nằm lì tại đó cho tới tận tối muộn mà quên cả bữa ăn, chỉ để ngắm bóng trăng phản chiếu trên dòng nước chảy mềm mại ngay trước mắt họ như một dải lụa vải.
“Cậu có biết trong đa số các nền văn hóa, Mặt trăng thường được miêu tả là đại diện của người phụ nữ không?” Một lần, Ben hỏi.
“Thế à?” Tom tỏ ra ngạc nhiên. “Tôi không biết đấy.”
“Tôi ghen tị với nó.”
Mặt Tom nhăn lại. “Với cái gì cơ?”
“Mặt trăng.”
“Cậu… ghen tị với Mặt trăng ư?”
“Ừ,” Ben đáp, giọng anh nghe chan chứa nỗi buồn. “Tại sao Mặt trăng sinh đã có được tình yêu thương của tất cả mọi người và tỏa sáng, còn tôi lại không?”
Tom không hiểu ý nghĩa câu nói đó của Ben, và mãi sau này anh vẫn không hiểu được. Nhưng có lẽ điều đó cũng chẳng tạo ra khác biệt gì, vì khi anh thì thầm vào tai Ben câu nói: “Cậu tỏa sáng trong mắt tôi.” Anh đã thấy Ben mỉm cười.
“Đồ khùng!” Tom càu nhàu vì bị dựng dậy khỏi giấc ngủ. “Cậu đúng là khùng thật rồi, Ben ạ. Hãy nhìn xem bây giờ là mấy giờ đi.”
“Thôi nào, Tom. Đừng có ngủ nướng nữa,” Ben năn nỉ, kéo chăn để buộc Tom phải rời khỏi giường. “Chúng ta hãy đi chơi thôi.”
“Tại sao cơ chứ?” Tom kêu lên thống khổ. “Giờ mới có sáu giờ sáng thôi. Ngay đến lũ dế giờ này vẫn còn đang ngáy ngủ nữa.”
“Vì mùa hè sắp kết thúc rồi,” Ben thì thào nói, ngồi sụp xuống cạnh Tom bên hông giường vớidáng vẻ đầy thất thần. “Mùa hè sắp kết thúc rồi, Tom ạ. Và tôi muốn chúng ta cùng nhau tận dụng nó.”
Tom ngồi bật thẳng lưng trên giường, chăm chăm nhìn thẳng vào dáng vẻ ủ rũ thất thường của Ben mà bỗng dưng cảm thấy bàng hoàng sau câu nói tưởng chừng rất đỗi bình thường của người bạn ấy. Đó cũng là lần thứ hai trong suốt gần một năm ở bên nhau, Tom lại cảm nhận được một cảm giác kỳ lạ khác. Nhưng không giống như lần trước, cái lần mà những ngón tay của Ben vô tình trượt qua cánh tay anh và gợi lên trong anh một sự rung động kỳ lạ. Ở lần này, cảm giác ấy giống như là một con dao xuyên qua tim khiến cho anh đau nhói; một nỗi đau anh chưa từng biết tới, và sự ngu ngơ ở cái tuổi mười bốn lại không sao giải thích cho anh hiểu nổi cảm giác đó là gì. Tom chỉ biết rằng, anh đã không còn càu nhàu vì bị Ben dựng dậy vào sáng sớm nữa, mà ngoan ngoãn đi theo anh ấy, gật đầu với tất cả những gì mà Ben muốn làm suốt cả buổi vui chơi hôm đó. Họ đã có một ngày vui vẻ nhất bên nhau trong những ngày thuộc về mùa hè năm đó: cùng nhau chạy nhảy trên cánh đồng hoang bất tận cho đến khi mệt lử rồi nằm gục đầu vào nhau bên bờ cỏ xuyến chi, sau đó lại chạy về phía khu rừng để tránh nắng khi ông mặt trời ngày càng gắt. Nhưng tại lần này, thay vì nằm hàng giờ trong pháo đài của riêng họ và cùng nhau nói về ngày mai như mọi lần, Ben muốn làm một điều gì đó khác biệt.
“Cậu nghĩ trong suối có cá không?” Ben hỏi.
“Có thể lắm chứ,” Tom hồn nhiên đáp. “Làm gì có dòng suối nào mà lại không có cá đâu.”
“Thế cậu dám thi lội xuống suối với tôi để xem ai bắt được nhiều cá hơn không?”
“Ngay bây giờ ư? Thế còn chuyện cậu sợ nước thì sao?”
Ben không nói thêm một lời nào với Tom mà chỉ mỉm cười, rồi giũ mình dựng người dậy và chui ra khỏi chiếc chòi lá. Anh nhẹ nhàng tiến về phía bờ suối, tiếng lá khô vỡ vụn nghe giòn tan theo từng nhịp chân anh bước. Dưới bóng cây bạch dương, Ben cởi chiếc áo phông trơn màu xanh mòng két và phơi nó lên một phiến đá trắng. Khi anh cúi xuống để cởi giày, một cơn gió tạt ngang qua làm cây cối trên đầu anh rung rinh, tạo khoảng trống cho những vệt sáng cao vời trên bầu trời lọt qua các tán lá chiếu xuống nơi anh đứng. Gió đưa nắng lượn lờ qua lại, âu yếm bả vai Ben cùng với tấm lưng trần. Khi Ben tháo giày ra và tụt nốt chiếc quần soóc xuống ngang hai mắt cá, nắng tiếp tục vui đùa, dạo chơi trên đôi bắp chân cùng hai bờ mông anh trắng hồng. Trong một giây ngắn ngủi, trong đôi mắt của Tom, cảnh tượng đó trông như thể một nửa cơ thể Ben đang phát sáng giống y hệt một viên đá quý vậy - một thứ ánh sáng tuyệt diệu, tỏa sáng và làm nổi bật các đường nét cơ thể của anh ấy khiến nó trông còn đẹp hơn cả một pho tượng tạc.
“Đồ thỏ đế,” Ben xoay người lại, giọng đầy khiêu khích. “Cậu không dám xuống nước à?”
Tom vốn không dễ gì bị dụ, nhưng lần này lại khác. Cơ thể phát sáng của Ben có một lực hút mãnh liệt đến kỳ lạ. Anh cảm thấy nó còn mạnh hơn cả trọng lực của Trái Đất. “Xuống thì xuống. Đây sợ cậu chắc.”
Nói xong, Tom liền bật dậy và chui ra khỏi chiếc chòi lá. Anh chạy thẳng về phía chỗ Ben đang đợi, tự tin cởi quần áo rồi đặt chúng bên cạnh bộ quần áo đã được gấp lại phẳng phiu của Ben trên phiến đá trắng, bỗng dưng sởn hết da gà sau cú huých khuỷu tay nhẹ của Ben mặc dù bản thân anh chẳng hề cảm nhận được một cơn gió lạnh nào sượt qua chỗ này. Anh chỉ biết có một cái gì đó vừa ngoi lên, âm thầm đưa mắt nhìn xuống vị trí giữa hai háng mình và cảm thấy hơi xấu hổ với điều này cùng đôi chỗ khó hiểu. Đó cũng là lần đầu tiên trong suốt mười bốn năm sống trên đời mà anh biết, thứ ấy đôi khi sẽ không còn nghe theo lời của ta nữa.
Song Ben hầu như chẳng hề để ý đến “tình hình chiến sự” của Tom là mấy. “Người đầu tiên bắt được năm con cá sẽ là kẻ chiến thắng.” Anh lên giọng ra điều kiện thắng lợi, đột ngột đẩy vai Tom để khiến anh ấy mất đà và hét lớn, rồi nhanh chân chạy về phía bờ suối hòng chiếm lấy lợi thế của kẻ đi trước.
Tom đứng hình trong ba giây vì quá bất ngờ. “Cậu được lắm, đồ ăn gian!” Anh lớn tiếng mắng mỏ Ben, sau đó cũng nhanh chóng theo chân anh ấy chạy xuống phía dòng suối để nhập cuộc. Sỏi và đá cuội dưới chân anh nghiến vào nhau thành từng đợt rào rạo. Chúng đa phần có màu trắng của gốm sứ; một vài viên pha lẫn chút đốm đen, thon và dẹt trông như thể những quả trứng chim cút.
Trong suối quả nhiên có cá, nhưng để bắt chúng bằng tay không thì rõ là một việc bất khả thi. Bởi chúng hầu hết là những con cá hồi suối hẵng còn non, con lớn nhất cũng chỉ dài chưa đến một gang tay, và con nào con nấy đều nhanh một cách kinh khủng khiếp. Không dưới năm lần, Tom tưởng chừng sắp ghi được cho mình một điểm số đến nơi, nhưng cứ hễ anh nắm lòng bàn tay lại, những con cá hồi non quái quỷ ấy cứ thế nghiễm nhiên biến mất trước mắt anh cứ như thể chúng có phép thuật vậy.
“Lũ cá đáng nguyền rủa.” Đến một lúc, Tom bực mình hét toáng lên và đánh gót tay xuống dòng chảy, làm nước văng lên tung tóe và làm lũ cá sợ hãi tách nhau ra về cả tứ phía. “Chúng đang trêu ngươi chúng ta.”
“Đồ đần độn này.” Ben đứng ở gần đó liền mắng anh. “Cậu đang khiến cho lũ cá của tôi chạy mất đấy.”
Tom xoay lưng lại chỗ Ben, gân cổ lên cãi. “Cậu bảo ai là đồ đần độn?”
“Tôi bảo cái mặt cậu đấy, đồ đần độn!”
Điều ấy hết sức đúng, đúng là Tom đần độn thật. Anh đần độn tới nỗi ngay cả với cái câu mắng hết sức đơn giản ấy của Ben, anh cũng không biết phải đáp trả lại như thế nào cho hợp lý. Nhưng không thể dùng đầu thì dùng sức. Anh thọc tay xuống dòng chảy và tạt mạnh nước về phía Ben và bật cười sằng sặc . “Nếu tôi là đồ đần độn, thì sao cậu lại ướt?”
Hai mắt Ben trợn tròn nhìn Tom vì không tin nổi vào điều vừa xảy ra, song anh hầu như chẳng thấy giận gì. Anh cũng quên hẳn việc bắt cá mà bắt trước Tom tạt nước về phía anh ấy để trả đũa với cái miệng cười lớn hết cỡ. “Ướt đi, đồ đần độn chết tiệt!”
“Cuộc chiến nước,” Tom rống lên, cười vang.
“Tôi mà chịu thua cậu chắc,” Ben nói, tiếp tục tạt nước.
“Không chịu thua mà được chắc,” Tom nói, đáp trả lại cú tạt nước.
Cả hai bên không ai chịu thua ai hay có ý định nhún nhường bên nào. Dòng chảy của con suối chẳng mấy chốc bị họ làm cho khuấy động, xoay tròn những con cá hồi non tít mù theo chiều chuyển động dưới chân họ. Càng lúc, họ càng tiến gần về phía nhau cùng những cú tạt nước quyết liệt hơn hẳn trước. Nước bắn lên đầu làm cho mái tóc họ ướt đẫm, lên mắt rồi lên miệng. Nước có vị ngọt của tự nhiên, thoang thoảng lẫn chút vị tanh toát ra từ những chú cá.
Khi cả hai đã quá gần nhau, Ben bất chợt tóm vào vai Tom. “Tôi sẽ quật ngã cậu tại đây,” anh tuyên bố.
Dù bị Ben làm cho bất ngờ, nhưng Tom không hề nao núng. Anh xoay người một vòng để thoát khỏi sự chế ngự của Ben, rồi dang tay ra và tóm lấy anh ấy, khóa chặt Ben trong tư thế ôm siết. Cơ bụng của Tom thít chặt lại, sau đó anh vận dụng sức mạnh của bàn chân thuận và tung chiêu gạt giò, làm cho Ben mất thăng bằng và ngã lăn ra. “Điều đó sẽ không thể xảy ra, nếu tôi quật ngã cậu trước,” anh nói.
Nước bắn lên tung tóe cùng cú ngã của Ben, nhưng bằng một khả năng thần kỳ nào đó, Ben tìm được cách để đứng dậy ngay lập tức. Tom đúng là khỏe thật đấy, và có lẽ là sẽ rất khó để bị đánh bại, nhưng điều đó chỉ làm cho anh cảm thấy sảng khoái và càng muốn đánh bại Tom hơn bao giờ hết. “Hãy xem cậu đã học được những gì sau một năm trời bên tôi.” Đầu Ben nóng phừng phừng, cảm thấy tức muốn điên khi bị Tom khiêu khích. Anh lao nhanh về phía Tom, với một tay anh giơ ra trước ngực tựa như một ngón giáo lớn. Nắm. Xoáy. Và thành công tóm được vào bắp tay của Tom ngay trong lần thử đầu tiên.
Đen đủi thay cho Ben, việc ngâm mình quá lâu dưới nắng khiến cho cơ thể của hai đứa lúc này đầy mồ hôi, rất trơn và dễ trượt, giống như thể chân tay họ đã được bôi lên một lớp dầu máy vậy. Tom nắm bắt tình hình rất nhanh. Anh tận dụng khoảnh khắc Ben bị hớ đà và sự dẻo dai vốn có của mình để vùng ra khỏi sức ép từ bàn tay Ben một lần nữa. Người Tom cúi thấp xuống, chiếc lưng của anh cong lên theo hình dáng một cánh cung đang căng ra hết cỡ, với bàn chân phải anh tiến lên phía trước, cùng hai tay anh dang rộng, ôm vòng qua eo Ben và đóng sập lại tựa như một chiếc bẫy gấu, rồi đẩy mạnh.
Cú đẩy khiến cho Ben nhanh chóng rơi vào thế mất đà. Anh xảy chân và trượt ngã trên đám rong rêu bám đầy khắp bề mặt những phiến đá lớn dưới lòng suối - thứ từ đầu vốn đã biến cả nơi này thành một sân trượt băng khổng lồ. Ben lại tiếp tục vùng dậy ngay sau đó, mặc kệ những cú ho vì sặc nước làm cho cổ họng anh bỏng rát, rồi anh lại vùng dậy và vùng dậy thêm lần nữa. Anh bị Tom quật ngã rồi vung dậy nhiều tới mức ngay chính anh cũng không thể đếm nổi số lần anh đã vùng dậy là bao nhiêu nữa.
Công bằng mà nói, cuộc đấu tay đôi giữa Ben và Tom không hẳn diễn ra một chiều như những gì tôi đang viết ra ngay đây. Mỗi khi Tom quật ngã được Ben hai cái, Ben sẽ quật ngã lại được Tom một cái. Và điều đó cứ thế tiếp diễn trong khoảng ba giờ đồng hồ, hoặc rất có thể là ba mươi phút. Bởi vì chẳng một ai trong số họ lúc này thực sự thèm chú ý đến thời gian, trong cái nắng chiều màu đỏ tía dưới ánh hoàng hôn trên con suối. Đến một lúc nhất định, khi cả hai đã dần cảm thấy thấm mệt, họ quyết định chuyển sân khấu chính của cuộc đấu vật lên một mô đất mềm ngay gần đó. Họ dìu nhau bước đi trong cơ thể ướt đẫm những giọt mồ hôi căng tràn sức sống của tuổi trẻ. Chỉ đến lúc này, Tom mới phát hiện ra một sự thật đã thay đổi trên cơ thể Ben khiến cho anh ấy phải sửng sốt.
Bên dưới đám lông xoăn đen nhánh có cùng màu với màu của tóc, nó nhô ra giữa hai háng Ben và đung đưa qua lại như một con cá hồi đang tung tăng bơi lội giữa dòng suối. Hóa ra ngay từ đầu, ý chí của Ben cũng đã không còn nghe theo lời của anh ấy nữa. Tom biết điều này nghe thật điên rồ và mâu thuẫn, nhưng anh cảm thấy mình không thể nào rời mắt khỏi mà cứ thế chú ý đến thứ ấy của Ben thật hồng hào, hơi hẹp và dài, có hình dáng của một cây nấm dại mọc lên trong khu vườn của mẹ anh sau mỗi trận mưa lớn. Hình ảnh của nó cứ làm cho Tom phải băn khoăn mãi, rằng liệu của Ben có dài hơn của anh? Giá mà anh có cơ hội để được đo thử thì hay biết mấy, và cái ý tưởng kỳ quặc này cứ thế vây lấy tâm trí anh suốt nhiều tuần lễ liền. Một điều cuối cùng về thứ ấy của Ben, cũng là điều mà mãi sau này Tom mới được biết chính xác về cái tên cũng như hiểu hết được khái niệm của nó - brit milah[1]. Điều mà tất cả những người đàn ông Do Thái sẽ phải trải qua ngay từ ngày tuổi thứ tám, sau khi họ cất tiếng khóc trào đời.
Đang giữa lơ mơ giữa dòng suy nghĩ, Tom bất thần nhận một cú quét chân và một lực giật rất mạnh chộp lấy anh từ phía sau hai bả vai. Và khi Tom còn chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra, anh đã thấy mình nằm đo đất.
“Cậu đang để ý đi đâu thế?” Ben cúi nhìn anh từ phía trên xuống, khoái chí cười sằng sặc.
Mặt Tom đỏ lên gay gắt còn bàn tọa thì đau đến phát dại. Anh thầm tưởng tượng ra cảnh cái mông của mình giờ đã bị dập nát như những trái hồng chín nẫu rơi lả tả trên lối đi trong khu vườn của mẹ anh. Anh tức tối vươn sải chân ra hết cỡ, siết chặt nửa dưới của Ben vào giữa hai háng mình và bẻ ngoặt một góc chín mươi độ. Quật ngã Ben, làm cho tên láu cá ấy ngã chúi xuống ngay cạnh mình.
“Thằng quỷ!” Tom chồm lên người Ben, giữ chặt hai tay anh ấy. Không cho phép Ben có bất cứ cơ hội chống cự nào và mắng vào mặt anh. “Cú đó đau đấy.”
Song Ben dường như chẳng cảm thấy tội lỗi gì. Anh bắt đầu cười và Tom, bỗng dưng quên béng đi mất cái đau và bắt đầu cùng cười với anh ấy. “Tôi tưởng mấy đứa tướng bò mộng như cậu vốn không biết đau chứ,” anh nói.
“Ừ thì, bọn này có biết đau đấy. Bất ngờ không, thằng quỷ!”
“Giá mà chúng ta làm điều này thường xuyên hơn,” Ben nói, vẫn không thể ngừng cười.
“Làm gì?”
“Chạy xuống dưới suối.”
Tom nhẹ nhàng buông lỏng cổ tay Ben ra. Và anh nói, “Nếu đó là điều cậu muốn, chúng ta vẫn có thể chạy xuống dưới suối vào ngày mai và những ngày mốt mà.”
Đột nhiên, Ben không có phản ứng gì mà trở nên im lặng tuyệt đối. Và điều đó, đối với Tom, giống như thể có ai đó vừa đâm một cây kim vào quả bóng bay được bơm đầy bên trong nó bằng khí heli, chọc vỡ quả bóng và tạo ra một tiếng nổ rất lớn; lớn tới nỗi khiến cho anh phải ngỡ ngàng nhận ra một thực tế sủng sốt: họ đang ở rất gần nhau. Rất gần. Gần tới nỗi anh có thể ngửi thấy mùi kem bạc hà phảng phất trong hơi thở của Ben mà anh ấy đã dùng để chải răng vào buổi sáng; gần hơn cả cái lần đầu tiên họ nằm cạnh nhau trong một đêm thứ Sáu của một ngày trời trở lạnh từ mùa đông năm ngoái. Rồi, Ben thổi phù vào mặt Tom và làm cho tóc anh bay lên. “Tôi thích đôi mắt của cậu,” Ben nói với anh, với giọng chân thành nhất.
Tom có thể cảm nhận rõ trái tim của anh lại đập mạnh nữa rồi. Hãy cút xéo đi, cảm giác này, anh thầm nghĩ. Suốt một lúc lâu, anh cứ thế mải mê nhìn vào đôi mắt của Ben đầy say sưa, thả mình đi lạc trong đôi mắt màu nâu sáng ấy của Ben hàng tiếng đồng hồ mà chẳng hề có chút ý thức nào về khuôn hàm của anh lúc này đang nghiến chặt lại, kìm hãm không cho một thứ cảm xúc mãnh liệt nào đó trong anh thoát ra ngoài. Thế rồi, trong một khoảnh khắc bốc đồng thiếu kiềm chế, anh buột miệng nói, hay đúng hơn là một lời thổ lộ. “Tôi cũng rất thích đôi mắt của cậu, Ben ạ. Đối với tôi, chúng là điều tuyệt vời nhất.”
Ben mỉm cười, chăm chú theo dõi gương mặt Tom. Sau đó anh nhẹ nhàng đưa ngón tay lên và chạm vào sống mũi của Tom, di chuyển ngón tay đó men theo viền môi mềm của Tom một cách đầy mơ màng. Rồi, không hiểu vì lý do gì, trong đôi mắt Ben bất chợt lóe lên một tia sáng xám xịt. Giống như thể có một cái gì đó trong anh vừa vụn vỡ, một cái gì đó trong anh vừa sụp đổ vậy. Hai hàng mi của Ben khẽ rủ xuống.
“Có bao giờ cậu tò mò cuộc đời cậu sẽ khác đi thế nào nếu cậu không phải là cậu bây giờ không, Tom?”
Tom lấy làm lạ, liền hỏi, “Giả dụ như?”
“Giả dụ như, sẽ ra sao nếu cậu là một chú cá hồi tung tăng bơi lội dưới dòng suối đằng kia, hay là một cánh chim tự do bay lượn trên bầu trời chẳng hạn?”
Tom nghĩ ngợi hồi lâu về lời gợi ý này của Ben, rồi lắc đầu. “Tôi không biết nữa. Tôi chẳng có tí hứng thú nào về một cuộc đời khác, nếu ở đó tôi không quen biết cậu,” anh đáp, và cười. “Thế còn cậu thì sao?”
Một khoảng lặng thật lâu. “Thỉnh thoảng,” Ben khẽ nói, “tôi tưởng tượng bản thân mình là Mặt trăng, để được ôm cậu thật lâu khi vạn vật đã chìm sâu vào giấc ngủ.”
Mặt Tom bỗng biến sắc, còn đầu óc thì choáng váng khủng khiếp. Câu nói này của Ben nhảy bổ vào tâm trí anh không khác nào sự tấn công của một cái hố đen vũ trụ, hút trọn anh vào một nỗi sợ hãi vô vàn hơn bao giờ hết. Anh không thể ngừng run rẩy và cảm thấy cả khu rừng này có hàng tỷ giọng nói đang gào thét vào tai anh; đang có hàng tỷ những con người khác đang ở trong khu rừng này xuất hiện cùng lúc với họ, và một trong số đó là một thằng Tom khác - một bản ngã đã đấu tranh với anh suốt một thời gian dài kể từ ngày Ben xuất hiện, cùng với bố của anh - ông Alfred. Cả hai người bọn họ đang đứng ngay tại đó, ngay trước mắt anh. Trong khi thằng Tom khác trao cho anh một cái nhìn đầy phán xét và kinh tởm, thì ông Alfred giận dữ - cũng không kém phần kinh tởm - gào thét vào mặt anh câu nói mà ông vẫn thường dùng để răn dạy anh mỗi ngày: “Đôi tay của người đàn ông là để che trở cho người phụ nữ, chứ không phải vòng qua eo của một thằng đàn ông khác!”
ANH ĐANG LÀM CÁI GÌ THẾ NÀY?!
Tom giật nảy lên, hoảng hốt đứng bật dậy để tách khỏi người Ben bằng mọi giá, mặc dù hành động này làm cho trái tim anh tan nát. Anh nhặt nhanh quần áo rồi bỏ chạy về hướng lối ra của khu rừng, mặc kệ lời hỏi han và sự van lơn hết mực đến từ Ben cầu xin anh hãy ở lại. Việc không may dẫm phải gai nhọn khiến cho bàn chân trái anh rướm máu. Anh tập tễnh chạy như một con thú bị thương, cố gắng tận dụng từng hơi thở quý giá để thoát khỏi sự truy đuổi của loài thú săn mồi. Chạy cho tới khi chân anh vấp phải một gốc du già trồi lên khỏi mặt đất rồi quỵ ngã, quên luôn cả đau mà bò vào một góc khuất nơi gần đó, nằm cuộn tròn, và bật khóc.
Trưa ngày kế tiếp, sau khi đã có một đêm suy nghĩ thông suốt, Tom quyết định sang nhà Ben để gửi lời xin lỗi tới anh ấy về hành động thô lỗ mà mình đã có trong chiều hôm trước. Tom bảo với tôi rằng đó là một trong những cảm giác trống trải và dằn vặt nhất anh từng trải qua, bởi vì hóa ra buổi chiều hôm đó là ngày cuối cùng mà anh và Ben được ở bên nhau. Khi Tom tìm đến nhà của Ben, người hàng xóm của họ thông báo cho anh biết gia đình nhà Becker đã chuyển đi từ sáng sớm.
“Cậu ấy thực sự có một đôi mắt rất đẹp.”
[1] Brit milah: tên gọi trong tiếng Do Thái của một giao ước thiêng liêng với Chúa Trời đã xuất hiện từ thời thượng cổ, hay còn được biết đến với tên gọi là lễ cắt bì.
Bình luận
Chưa có bình luận