Chiếc Uber đón chúng tôi từ chỗ sân bay dừng lại ở phía bên này thanh chắn đường ray tàu hỏa, trước khi vượt qua một tấm biển báo giới hạn tốc độ, rời khỏi con đường chính tại một ngã rẽ cách đó chừng năm mươi mét và giảm tối đa tốc độ trên một khúc cua hình chữ S khá hiểm, lúc người tài xế bẻ lái tài tình đưa chiếc xe cà tàng cùng ba người chúng tôi leo lên một con đường hướng lên cao dần. Tôi ngoảnh lại nhìn những ngôi nhà ngày một xa phía bên dưới chúng tôi từ đằng cửa sổ, cố gắng cô lập cái ý tưởng chúng tôi từng chút một rời xa nền văn minh nhân loại đang nhen nhóm, đổi hướng nhìn lên những hạt bụi ngưng đọng trong những vạt nắng chiếu vào trong xe, thoáng xuất hiện trong một vài giây ngắn ngủi trước khi ẩn mình hẳn vào phía sau những rặng cây đang thay lá. Nghĩ ngợi.
“Đừng lo, hãy cứ xem như đây là một chuyến du ngoạn. Anh hứa là mọi chuyện sẽ ổn cả thôi,” Tom đã nói, với tôi, và có lẽ là cả với chính anh, vô số lần, ngay từ thời điểm tôi gật đầu nhận lời theo anh về Georgia để đón Lễ Tạ ơn cùng gia đình anh. Nhưng liệu chúng tôi có thực sự sẽ ổn như lời anh hứa không? Kể ra thì hẳn phần nào bạn đã nắm rõ được suy tư của tôi rồi đấy. Tôi mạn phép cho là chúng ta đều đồng ý Tom không vô lo tới mức anh không ý thức được điều này, nhưng thông qua câu chuyện của anh và Ben gần hai mươi năm về trước, rõ ràng ông Alfred - bố của anh, chẳng hề mặn mà gì với việc con trai ông “đặt tay vòng qua eo một thằng đàn ông khác”. Đấy là chính miệng Tom đã nói với tôi đấy nhé. Tôi đơn giản chỉ thuật lại y chang lời của bố anh cho bạn nghe thôi. Không thêm thắt một từ! Vậy thì bạn cứ thử tưởng tượng nhanh mà xem. Liệu Alfred sẽ có phản ứng thế nào khi biết con trai ông không những đặt tay vòng qua eo, mà thậm chí còn ngủ với thằng đàn ông mà anh đưa về để đón Lễ Tạ ơn cùng với gia đình họ. Tôi thì tôi chẳng dám tượng tượng đâu, thôi thì…
“Đó là nhà cũ của Ben.” Tom ngồi ở phía bên kia chiếc xe, cất tiếng.
Dòng suy nghĩ bị cắt ngang, tôi nhìn ra khung cảnh bên ngoài rồi nhìn sang anh. “Đâu cơ?”
Tom rướn người lại chỗ tôi, cánh tay trái anh đưa lên và chỉ về phía một khu đất trống nằm giữa những rặng cây, nơi có ánh nắng dịu nhẹ chiếu lên mái lán của một ngôi nhà xám bạc buồn thảm. “Ở kia, chỗ chiếc bán tải màu đỏ mận đang đậu bên hông ngôi nhà, em thấy không?”
Tôi gật đầu. Có thấy.
“Ngôi nhà đã từng được sơn trắng và trông vui vẻ hơn thế kia nhiều,” anh nói, giọng pha lẫn chút tiếc nuối. “Nhưng anh đoán là họ bây giờ chẳng còn quan tâm nữa.”
“Họ vẫn là những người đó sao?”
“Em bảo ai cơ?”
“Gia đình đang sống trong ngôi nhà đó. Họ có phải là cùng một gia đình đã chuyển đến ngay sau khi Ben rời đi không?”
“Họ không phải,” anh đáp. “Ngôi nhà có lẽ đã sang tay bốn hay năm đời chủ nhân gì đó rồi, theo hiểu biết của anh là thế.”
“Bốn, năm đời chủ trong vòng hai mươi năm ư?” Tôi không giấu nổi sự ngạc nhiên. “Bộ ngôi nhà đó bị ma ám hay gì chắc?”
Tom nhe răng cười. “Nếu điều đó là sự thật, thì nó chỉ khiến ngôi nhà trở nên đắt giá hơn thôi. Giá của ngôi nhà sẽ tăng phi mã như điên luôn ấy chứ. Em biết đấy, mọi người đều yêu thích cảm giác rùng rợn mà.”
Dù có được thách đố một triệu đô thì em cũng chẳng ham hố gì mà đặt chân vào ngôi nhà đó, nếu nó thật sự bị ma ám, tôi định nói thế, nhưng nghe có vẻ phét lác quá nên thôi. Những một triệu đô chứ đùa. “Em đoán vậy. Xã hội loài người vốn đã điên đảo từ lâu rồi mà.”
Giờ thì anh cười thành tiếng. “Mà có vẻ như mấy viên ambien đã gần hết tác dụng với em rồi nhỉ? Em không còn càu nhàu ‘để yên cho em ngủủủ’ với anh nữa.”
“Ha-ha,” tôi đáp. “Bạn trai em hài hước quá thể.”
Người tài xế ngước nhìn chúng tôi qua kính chiếu hậu khi ông ta nghe thấy tôi gọi Tom bằng hai từ “bạn trai”, và hai bả vai của ông ta căng lên khi nhận ra tôi cũng đang nhìn ông ta từ đằng kính chiếu hậu. Ông ta bối rối ra mặt, ngay cả tôi cũng khá bối rối. Ông ta chớp mắt liên tục, cố gắng tập trung vào con đường phía trước, không giấu nổi vẻ ngượng ngùng sau khi bị tôi phát hiện ra vụ nhìn trộm, cuối cùng thở dài ra rồi làm một nụ cười chữa cháy trên môi hòng mong sự việc lắng xuống. Hai chúng tôi sau đó rời mắt khỏi nhau gần như cùng lúc, buông tha cho nhau thoát khỏi tình thế khó xử ấy. Về phần mình, tôi chẳng có gì để phàn nàn về hành động đó của người tài xế, bởi bản thân tôi cũng đâu thiếu gì những lần hóng hớt chuyện của người khác (rồi rồi, tôi thừa nhận. Cái tính này của tôi khá xấu). Nhưng bạn cũng thừa hiểu, khi ta nghe lỏm được một chuyện của nợ nào đó hay ra trò, đó là lúc trí tò mò được kích hoạt và nó bảo ta phải nhìn, thế thôi.
Tôi trao ánh mắt cho Tom, người lúc này đang chủ động chìa bàn tay ra cho tôi nắm lấy, đọc rõ từng chữ ẩn giấu trong đôi mắt anh đang muốn gợi ý cho tôi: Được rồi, chúng ta đã ở đây. Giờ em muốn biết điều gì về anh. Hãy hỏi đi?
Tôi lồng những ngón tay của tôi vào bàn tay anh. “Được rồi, em đang có khoảng năm nghìn câu hỏi trong đầu. Anh muốn nghe câu nào trước?”
“Chỉ khoảng năm nghìn câu thôi sao?” Anh làm biểu cảm hài hước.
“Hôm nay nhiêu đó là đủ rồi,” tôi nói, vuốt nhẹ ngón tay lên phần tóc mai mới cắt hẵng còn cứng như lông bàn chải gần vành tai anh. “Chúng ta sắp đến nơi chưa? Mông em tê cứng cả rồi.”
Tom nhìn ra khung cảnh đằng sau lưng tôi. “Gần đến rồi, chừng ba trăm mét nữa.”
“Chỗ này khá ổn áp đấy chứ. Sau hơn một giờ ngồi trên xe, em cứ tưởng điểm đến cuối cùng của chúng ta sẽ là một chốn đồng không mông quạnh nào đó cơ.”
Kể từ đoạn rẽ vào đầu khúc cua hiểm, ngoài những rặng cây dày đặc gần như bao quát mọi hướng nhìn, chiếc Uber đã đưa chúng tôi đi qua một hiệu thuốc, một tiệm giặt là, một khách sạn ven đường, một cửa hiệu cắt tóc nằm kế bên một cửa hiệu tạp hóa, một nhà hàng gia đình, và nhà cửa thì nằm rải rác chỗ đây một ít chỗ kia một tẹo (đáng tiếc là chẳng có lấy một hiệu sách hay quán cà phê nào). Tom kể với tôi chuyện anh luôn tránh xa cửa hiệu tạp hóa vì chẳng ưa nổi đám thanh niên thường tụ tập tại một bãi đất hoang gần đó, rồi chuyển sang kể với tôi về những lần anh đi câu cá cùng với bố anh tại công viên tiểu bang. Anh đã cười rất tươi khi kể đến đoạn họ chẳng bao giờ câu được một mẻ cá nào ra hồn, vì cả hai bố con anh đều là những cần thủ rất tệ, nhưng nó vẫn vui và đáng nhớ. Và cuối cùng, anh bảo với tôi rằng Clermont chẳng mấy thay đổi so với trí nhớ của anh gần hai mươi năm về trước, rằng nhịp sống ở vùng thôn quê vốn luôn thế, vẫn luôn khác hẳn so với tốc độ quay của những chốn thành thị, và mọi người thường không vội vã để chuyển mình.
Tom chỉ đường cho người tài xế rẽ vào một lối đi rải sỏi, nơi có những bóng cây đang đồng loạt đổ chéo về một góc sân ngược hướng nắng. Người tài xế vui vẻ nghe theo sự chỉ dẫn của Tom và xoay nhẹ vô lăng, bất thình lình vạ phải một tiếng nổ lớn phát ra từ đằng ống xả, khiến cả chiếc xe giật lại một cái rõ mạnh rồi chết cứng tại chỗ, và làm lũ chim trên đầu chúng tôi bay tán loạn vì kích động. “Ôi, bố khỉ!” Người tài xế buột miệng thốt lên. Tôi và Tom ngẩn mặt nhìn nhau, dự cảm có chuyện chẳng lành, nhưng là chẳng lành cho người tài xế. Kể ra thì dù sao chúng tôi cũng đã gần tới nơi cần đến, nhưng việc bị hỏng xe ở giữa chốn chẳng có lấy một cửa hiệu sửa xe nào thế này thì đúng là đen đủi cho ông ta quá. Sau hai lần thử khởi động lại máy không thành công, cuối cùng cũng có một phép màu xuất hiện với chúng tôi - và cá nhân người tài xế - ở lần thử thứ ba. “A ha! Hai cậu thông cảm nhé, chuyện này đôi khi vẫn hay diễn ra, song nó hầu như chẳng phải là một vấn đề to tát gì. Chiếc xe vẫn chạy bon bon,” ông ta bảo với chúng tôi cùng một nụ cười niềm nở. “Nhìn vậy thôi chứ con xe rách này đã nuôi sống năm miệng ăn cả gia đình tôi gần hai chục năm trời rồi đấy, và giá mới cứng của nó thời đó cũng chẳng phải là rẻ gì.”
“Vâng. Tôi đoán tất cả mọi thứ đều đã từng có một thời huy hoàng của nó mà, phải vậy không bác?” Tom nói.
Người tài xế gật gù. “Chính xác là như vậy.”
Chiếc xe tiếp tục di chuyển men theo khúc cua, đưa chúng tôi về điểm đích của một chuyến đi an toàn. Trước khi tiến vào trong sân, Đây rồi, tôi thầm nghĩ, tượng tưởng ra vẻ ngoài của ngôi nhà lần cuối cùng trong suốt chuyến hành trình kéo dài gần tám tiếng đồng hồ vừa qua, hít vào lồng ngực một làn hơi đầy. Đây rồi, cuối cùng thì giây phút này cũng đến.
Chiếc xe đỗ xịch lại trong sân. Người tài xế mở cửa phía người lái, bước nhanh ra ngoài và đi thẳng về phía đuôi xe để giúp chúng tôi lấy hành lý trong cốp (chiếc xe cà tàng được ông giữ nguyên trong tình trạng nổ máy. Cẩn tắc vô áy náy, ắt bạn cũng hiểu). Tom kiểm tra lại số tiền cước xe chúng tôi cần phải trả trên hệ thống của Uber lần cuối, rồi anh quay sang và hôn nhẹ lên trán tôi, thì thầm vào tai tôi. “Cảm ơn em vì đã ở đây cùng anh ngày hôm nay.”
Tôi mỉm cười với anh. “Được rồi, hãy nhanh ra khỏi đây thôi nào. Em không muốn tay tài xế nghĩ chúng ta làm điều gì đó kỳ quặc trong xe của ông ấy đâu.”
Theo thói quen, tôi đưa tay sờ vào vị trí các túi quần để kiểm tra điện thoại và ví tiền một lần cuối trước khi rời khỏi xe. Từ đằng bên này, tôi loáng thoáng nghe thấy Tom và người tài xế trao đổi hãy cho ông ấy một đánh giá năm sao, rồi họ lần lượt chúc nhau một Lễ Tạ ơn an lành! Tôi chợt nhớ lại lời hứa hẹn của Jane và liền hiểu ra cái lý do vì sao chị lại bảo với tôi, rằng tôi sẽ nhận ra mẹ của Tom là một người làm vườn ngay sau khi tôi đặt chân lên mảnh đất của họ, vì chỉ cần nhìn lướt qua, tôi cũng có thể thấy Harriet trồng rất nhiều những loài hoa khác nhau (một điều mà ngay trong buổi tối hôm nay tôi sẽ được bác tiết lộ, chúng hầu hết thuộc họ hoa cúc). Ngoài những khóm cẩm tú cầu được Harriet trồng quanh các gốc cây dọc lối đi dẫn vào trong sân, tôi thích cái cách đôi mắt của mình được xu nịnh bởi những bụi đỗ quyên, thanh cúc, và bách nhật đỏ chạy dọc hai bên hông ngôi nhà. Ngắm nhìn chúng đung đưa trong gió khiến tôi cảm thấy thời gian như đang trôi chậm lại, làm cho mọi sự lo lắng trong tôi giảm dần và tan ra.
Có một sự khác biệt rõ rệt về ngôi nhà ngay trước mắt tôi so với toàn bộ những ngôi nhà quanh vùng lân cận. Ngôi nhà của gia đình Armitage đích thực là một điểm sáng đặc biệt của chốn thôn quê yên bình này, và thật không ngoa khi nói rằng tôi đã phải lòng với nó ngay từ lần đầu chạm mắt. Ngôi nhà trông giống như một tác phẩm nghệ thuật vậy! Nó khiến tôi liên tưởng ngay đến ngôi nhà bên cạnh dòng suối nông trong bức họa The Hay Wain của John Constable[1]. Ngôi nhà được xây dựng trên một nền đất bằng phẳng, với gạch nung đỏ và đá, phỏng theo phong cách của những ngôi nhà nhỏ vùng đông nam miền quê nước Anh, cùng những cửa sổ trượt màu trắng và cửa ra vào cũng có màu trắng tinh nốt. Có một khu vực thưởng thức trà chiều ngoài trời gần mạn trái của ngôi nhà lúc này đang nằm trong bóng mát, trên bàn trà được đặt một giỏ hoa thược dược nhỏ. Và tôi cảm thấy mình đã may mắn đến đúng thời điểm, để được ngắm nhìn mùa hoa đăng tiêu nở rộ lần cuối cùng trong năm trước khi sương giá kịp phủ xuống. Đám dây leo và hoa có hình thù của những chiếc kèn trumpet đó đẹp đến nghẹt thở, tự tung hứng trọn ánh nắng trên cột ống khói cũng như toàn bộ mái nhà, dạt sát xuống mặt đất và bao phủ một phần hông ngôi nhà, tạo ra vẻ đẹp thổn thức của một vườn treo đúng nghĩa.
Từ chỗ tấm vạt thú cưng ra vào trên thân cửa, một con chó sục giống Cairn lao ra chào đón chúng tôi. Con chó mừng quýnh bỏ qua người lạ mặt là tôi mà chạy thẳng đến chỗ của Tom đang kéo chiếc vali cách đó không xa. “Chào mày, Hạt Đậu.” Anh tỏ ra vui mừng không kém, khom lưng xuống và bế bổng con chó lên, thoải mái để cho con chó liếm khắp mặt mình. Cả hai xem chừng có một mối liên kết rất đặc biệt. “Gần một năm rồi nhỉ, anh bạn bé nhỏ của tao!”
“Này, cả hai người. Hãy thuê một phòng riêng đi!” Tôi trêu anh.
Tom ẵm con Hạt Đậu trong tay như ẵm một đứa trẻ sơ sinh và bước về phía tôi. “Giới thiệu với em, đây là Hạt Đậu. Anh đã tìm thấy cu cậu đang nằm thoi thóp bên cạnh một con mương cạn trong một lần chạy xe về nhà ba năm trước,” anh nói. “Tình trạng của nó lúc đó khá tệ, bị hoại tử gần một nửa mông cũng như chân trái, và toàn bộ phần đuôi. Nhưng cu cậu đã chiến đấu rất kiên cường và giờ thì cu cậu là kẻ hạnh phúc nhất thế gian rồi. Phải vậy không, anh bạn nhỏ? Phải vậy không?”
“Thật thế ư?” Ngắm nhìn con chó nhỏ nằm gọn trong vòng tay Tom, tôi có quá nhiều những câu hỏi gợi lên trong đầu. “Nếu em không nhầm thì giống chó này khá đắt tiền đấy. Ai lại bỏ rơi nó nhỉ?”
“Có lẽ vì không như chúng ta, một vài người chẳng quan tâm đến các khía cạnh về mặt tiền bạc, mà chỉ quan tâm đến giá trị tình cảm mà em đem lại cho họ, và họ sẽ không ngần ngại vứt em ra đường ngay khi họ không còn khai thác được chút giá trị tình cảm nào từ em nữa,” Tom đáp với một cái nhún vai. “Nhưng dù sao thì, hãy nhìn cu cậu mà xem. Đó rõ ràng là mất mát của họ.”
Tom gợi ý tôi vuốt ve con Hạt Đậu để làm quen, nhưng không được. Ngay khi tôi gần chạm tay vào vùng lông trên đầu con chó, nó liền sủa nhặng lên. Đanh đá ra trò. “Chà, chủ nào tớ nấy.” Tôi rụt tay ngay lại, mỉa mai. “Cuộc đời tôi lại có thêm một anh bạn ầm ĩ nữa rồi.”
Tom xoa dịu con Hạt Đậu, cười tươi. “Đừng lo. Tất cả mọi thứ em cần làm để chiếm được tình cảm của cu cậu là một miếng thịt xông khói, và sau đó em sẽ không thể nào thoát khỏi cu cậu được nữa đâu.”
Hạt Đậu, quay lại đây!
Có tiếng gọi vọng ra từ trong nhà cùng tiếng chốt mở cửa, tôi và Tom chuyển hướng chú ý về phía ngôi nhà. Khi cánh cửa mở ra, một người đàn ông tập tễnh trên một cây gậy tại nơi ngưỡng cửa có vẻ lấy làm rất đỗi kinh ngạc trước sự xuất hiện của hai chúng tôi. Cả gương mặt ông lập tức bừng sáng lên khi nhìn thấy chúng tôi; và mặc dù ông đang đội một chiếc mũ nồi, tôi vẫn có thể nhận ra mái tóc của ông đã bạc trắng gần hết. Người đàn ông đó là Alfred - bố của Tom, và trên thực tế thì ông không đến nỗi già như lời tôi kể. Ông mới chỉ ngoài sáu mươi mà thôi. Về mái tóc đã gần bạc trắng, tôi cho là chúng ta có thể hiểu được, còn vụ chống gậy thì sau này tôi được biết nguyên do là từ chứng bệnh phong thấp quái gở của ông. Tom bảo với tôi rằng cứ mỗi lần trái gió giở giời, cái đầu gối của Alfred lại bị sưng tấy lên và đau tới nỗi ông không thể đi lại bình thường được.
“Ôi, Tom, con trai tôi. Bất ngờ gì thế này!” Alfred quên luôn cả đau mà tập tễnh bước về phía Tom.
Tom đón lấy cái ôm của bố anh. “Chào bố già của con.”
Ngắm nhìn hai bố con anh trong cùng một khung hình, tôi chợt nhận ra Tom là một bản sao hoàn hảo của Alfred. Họ giống nhau như tạc. Từ điểm nhô của chiếc mũi cao cho đến chiều sâu của đôi mắt, và đường góc vuông vức của khuôn hàm. Họ giống nhau tới nỗi tôi hoàn toàn có thể nhìn thấy rõ mồn một Tom của ba mươi năm nữa sẽ trông như thế nào.
“Halle, là Tom,” Alfred nói vọng vào trong nhà để báo tin vui cho vợ ông.
“Tom ư?” Harriet hỏi vọng ra, giọng hết sức ngạc nhiên.
“Vâng, là con đây, thưa mẹ,” Tom nói với mẹ anh, và chúng tôi có thể nghe thấy tiếng kêu hân hoan của Harriet vang lên (có lẽ là từ gian bếp). Rồi, anh hỏi, “Cái chân đau của bố lại phát tác nữa rồi sao?”
“Ôi dào, ba cái chuyện cỏn con năm nào cũng xảy ra một lần ấy mà. Nhưng bố đã uống thuốc con mới mua cho rồi. Thuốc hiệu nghiệm lắm.” Rồi trọng tâm của cuộc trò chuyện nhanh chóng chuyển sang tôi. “Còn anh bạn đây là?”
Trước khi Tom kịp nói điều gì, tôi đã đưa tay ra để xin phép được bắt tay với Alfred. “Chào Ngài Armitage. Cháu là Nick, một đ-đồng nghiệp của Tom.”
Hai hàng lông mày của Tom khẽ nhíu lại, và tôi nhận ra vẻ không hài lòng thoáng lướt qua trên gương mặt anh, khi anh nghe thấy tôi tự giới thiệu tôi là một đồng nghiệp của anh.
Alfred vui vẻ đáp lại cái bắt tay của tôi. “Ồ, cậu cùng làm việc tại Sở Cảnh sát với con trai tôi sao? Quý hóa quá! Giới thiệu với cậu, ông già đây tên Alfred, và chớ có gọi ta là ‘Ngài Armitage’ làm gì. Nghe trịnh trọng quá. Gia đình ta rất hân hạnh được tiếp đón cậu.”
Lúc này, mẹ của Tom xuất hiện. Và tôi cảm thấy mình cần phải nói thêm một chút ở đây, rằng tôi đã lập tức có cảm tình với Harriet, không phải vì bác trông rất giống Meryl Streep trong tạo hình của nhân vật Donna Sheridan trong bộ phim Mamma Mia! mà tôi đặc biệt yêu thích (tôi đã xem đi xem lại bộ phim hàng trăm lần kể từ khi nó được ra mắt vào năm 2008 mà vẫn không biết chán. Bộ phim tuyệt lắm đấy. Nó luôn khiến tôi cảm thấy hạnh phúc mỗi khi xem lại), mà có một ánh hào quang đặc biệt toát ra từ gương mặt bầu phúc hậu của bác khiến tôi lập tức có cảm giác tin tưởng tuyệt đối nơi bác (và tôi đã không sai, ngay từ cái lần đầu tiên chúng tôi gặp gỡ cho đến tận sau này, Harriet luôn là một đồng minh và là một người mẹ hết sức tuyệt vời của hai chúng tôi).
“Chào bác, cháu là Nick ạ.” Tôi chủ động gửi lời chào hỏi đến Harriet.
“Chào cháu yêu. Chào mừng cháu tới thăm gia đình bác. Bác là Harriet, nhưng hãy gọi bác là Halle,” bác bảo với tôi bằng giọng mến khách hết cỡ.
“Vâng, bác Halle. Bác có khu vườn tuyệt quá. Cháu mê mẩn dàn hoa leo của bác.”
“Ồ, vậy thì sinh vật linh hồn của cháu rất có thể là một chú chim ruồi đấy. Vì dàn hoa leo thu hút ghê chúng lắm.”
Tôi cười tươi.
“Nếu em thích dàn hoa leo đến thế, hãy quay lại đây vào tháng Một,” Tom bảo với tôi. “Anh đảm bảo em sẽ khóc hết nước mắt khi phải dọn dẹp đống dây leo chết khô cho mà xem.”
“Đừng để ý đến lời của nó, cháu yêu. Nó rõ là một kẻ chuyên phá bĩnh tâm trạng.” Harriet vừa nói vừa đánh nhẹ vào vai Tom, và anh lại làm một nụ cười nhe răng đặc trưng. “Được rồi được rồi. Mọi người mau vào nhà đi, vào nhà đi.”
Tom dìu bố anh vào nhà trước, trong khi Harriet quay sang tôi và không cho tôi bất cứ cơ hội nào để khước từ việc hãy để bác kéo hộ hành lý vào nhà. Điều này khiến tôi phát ngại, mặc dù cái vali không nặng lắm và cũng chẳng cồng kềnh gì. Nhưng rốt cục thì chính sự nhanh nhẹn của Harriet chẳng thua kém gì một cô thiếu nữ tuổi đôi mươi đã khiến tôi phải cảm thấy kinh ngạc.
Tôi ngồi đợi mọi người ở chỗ chiếc ghế tựa bọc nệm tại phòng khách, bên cạnh chiếc lò sưởi đang bỏ trống, và ở phía giữa là một bàn trà phảng phất mùi gỗ tuyết tùng có kiểu dáng khá cổ. Alfred ban đầu lịch sự xin phép chúng tôi để ông được nằm trên sô-pha vì cái chân đau của ông, nhưng rồi ông cảm thấy đau hơn ban nãy nên đã bảo Tom đưa ông vào phòng nghỉ. Harriet quay lại phòng khách khoảng năm phút sau đó, sau khi bác mang hành lý của tôi và Tom cất vào phòng ngủ trên tầng hai. Một điều mà sau này tôi được biết, ban đầu đó là phòng ngủ của bố mẹ Tom, nhưng vì mỗi năm cái chân đau của Alfred lại ngày một tệ hơn, nên họ đã chuyển hẳn xuống phòng ngủ cũ của anh ở dưới tầng một cho đỡ bất tiện.
“Cháu cần phải nói, bên trong ngôi nhà đẹp không thua kém gì bên ngoài. Cháu thích cái cách hai bác để dầm gỗ lộ thiên và những chiếc đĩa sứ được trưng bày trên các giá gắn tường. Chúng khiến căn nhà trông mới thật thân thiện và ấm cúng làm sao.”
“Ồ, nếu cháu cảm thấy thế thì hãy thử giải thích điều đó với con trai bác một lần đi,” Harriet nói. “Nó đã tìm đủ mọi cách để thoát khỏi nơi đây từ những năm cuối chương trình học phổ thông rồi cơ đấy.”
“Chuyện không phải như lời mẹ anh nói đâu.” Tom xuất hiện từ phía đằng sau lưng của mẹ anh. “Chỉ là anh…”
“Cháu thấy chưa? Nó chưa bao giờ tìm được cách để kết thúc câu nói đó,” bác bảo với tôi, rồi quay sang anh. “Nhưng dù sao thì mẹ vẫn rất vui vì đã có hai đứa vào Lễ Tạ ơn năm nay. Sáng sớm nay mẹ biết mình cảm thấy cần phải nấu nhiều đồ ăn hơn mọi năm là có lý do mà.”
Tôi cười với Harriet vì bác cũng đang cười với tôi, rồi sau đó bác bảo tôi hãy cứ tự nhiên như ở nhà, còn bác sẽ vào bếp để đặt nước pha trà. Tôi nhổm người dậy. “Ôi, bác không cần pha trà đâu ạ.”
Bác nguýt yêu tôi. “Cháu sẽ làm lòng mến khách của bác bị tổn thương, nếu cứ tiếp tục từ chối như thế.” Tôi lại cười.
Tôi không thể ngừng suy nghĩ về cái cụm từ “nhiều hơn mọi năm” của Harriet. Phải chăng đó là lời ám chỉ của bác về việc Tom không thường xuyên về nhà trong những dịp lễ? Vì thế, ngay khi Tom ngồi xuống bên cạnh, tôi liền quay sang và thì thầm vào tai anh. “Anh không hay về nhà những dịp lễ sao?”
“Lũ tội phạm không có ngày nghỉ lễ, em cũng biết mà,” Tom đáp.
“Thật không?” Tôi nói, không thấy thuyết phục.
“Thật hơn chuyện em nói với bố anh em là một người đồng nghiệp của anh.”
Tôi ngượng chín mặt, họng cứng lại. “Em đã làm rối tung mọi chuyện lên cho anh rồi ha? Xin lỗi vì chuyện đó.”
“Không sao. Em luôn có thể đền bù cho anh vào một dịp khác.”
Từ trong bếp, Harriet hỏi tôi: “Cháu có muốn thêm sữa vào trà không, Nick?”
Tôi tròn mắt nhìn về phía gian bếp, cảm thấy hơi lạ vì điều này. Người Mỹ không có thói quen dùng trà của họ với sữa. Nhưng hãy khôn ngoan hơn nào, tôi đã từ chối Harriet hai lần rồi và không thể có lần thứ ba. “Vâng, vậy thì tuyệt quá ạ,” tôi nói, rồi quay sang Tom. “Được rồi, đừng đánh giá em nhé, nhưng em cần phải hỏi anh điều này. Em đã suy nghĩ về nó một thời gian rồi. Có phải gia đình anh là người Mỹ gốc Anh không thế?”
Tom nhìn vào mắt tôi, với ánh mắt cùng nụ cười khuyến rũ bậc nhất của anh. “Em nghĩ sao về điều đó?”
Một giọng Cockney[2] hoàn hảo!
[1] John Constable (1776 – 1837): Là một họa sĩ phong cảnh theo đuổi truyền thống lãng mạn người Anh.
[2] Cockney là tên gọi của dạng rộng nhất của giọng địa phương London.
Bình luận
Chưa có bình luận