Bầu trời chuyển sang một màu cam bất thường cùng gió giật vào lúc năm giờ chiều và bắt đầu đổ mưa nặng hạt khi trời sẩm tối. Tom vẫn đang ngủ ngon lành lúc có tiếng gõ cửa từ ngoài hành lang vọng vào, còn tôi thì đứng bên hiên cửa sổ, ngắm nhìn cây hồng đang thay lá phía sau vườn nặng trĩu nước dưới vệt sáng nhờ nhờ của ánh đèn điện từ trong nhà hắt ra.
“Bác vào được không hai đứa?”
Nhận ra giọng của bác Harriet, tôi xoay người về phía cánh cửa. “Vâng, được ạ.”
Một tiếng cạch rất nhẹ của bản lề cửa vang lên khi Harriet đẩy cửa bước vào. Không còn bộ quần yếm làm vườn giống như Donna Sheridan lúc bác đón tiếp chúng tôi hồi chiều nay; giờ bác đã thay sang một bộ cánh mới, nhưng trông vẫn thật giản dị và nhẹ nhàng với chiếc áo cardigan và váy xòe, cùng mái tóc màu vàng cát được bác thả xuống ngang vai. Vẻ ngoài trẻ trung của bác khiến tôi cảm thấy thật khó tin trước sự thật bác đã là một người phụ nữ ngoài sáu mươi. Thành thật mà nói, trông bác giống một người chị lớn tuổi của Tom hơn là mẹ của anh.
“Chào cháu yêu. Bác có mang nước cho hai đứa đây,” Harriet nói, trên tay bác là một bình nước trong suốt cùng chiếc cốc thủy tinh có quai treo đang móc vào ngón giữa.
Tôi bước nhanh qua khoảng cách giữa chúng tôi trong căn phòng, đón bình nước và chiếc cốc từ tay Harriet, gửi một lời cảm ơn tới bác, rồi đặt chúng lên mặt kệ tủ đầu giường.
“Căn phòng đủ thoải mái với cháu chứ?”
“Mọi thứ đều không thể chê vào đâu được ạ,” tôi đáp. “Cháu đang kìm lòng để cố không khen ngợi ngôi nhà một cách thái quá, vì sợ rằng điều đó sẽ biến cháu thành một kẻ nịnh bợ.”
“Đừng ngốc thế. Bác không ngại đón nhận những lời ngợi khen đâu.” Bác mỉm cười rồi dừng lại, nhìn ra phía đằng sau lưng tôi, nơi Tom đang nằm vắt một chân lên tấm chăn mỏng, ngáy ngủ rõ lớn. “Nó vẫn luôn như thế, vẫn không bỏ được cái nết ngủ xấu tính ngay cả khi đã là một người đàn ông.”
Tôi quay lại nhìn về phía anh. “Đàn ông bọn cháu vốn thường không trưởng thành bởi tuổi tác mà bác.”
“Đúng là thế thật,” bác đồng tình. “Nhưng cháu sẽ thấy điều này thật kỳ lạ khi cháu có con cái. Ý bác là, khi nhìn thấy hai đứa lúc chiều nay, bác có cảm giác giống như thể Tom vừa tạm biệt bác vào buổi sáng để tới trường và quay về nhà trong dáng vóc của một người đàn ông trưởng thành vậy. Khoảng thời gian mà nó lớn lên đã đi đâu hết cả rồi? Bác thậm chí còn chẳng nhớ nổi từ khi nào mà mặt nó đã mọc đầy râu như vậy nữa kìa.” Harriet cảm thấy cần phải ngưng lại trong giây lát, và tôi nhận ra một sự xúc động mãnh liệt hiện lên trong đôi mắt của bác. “Tất nhiên là bác vẫn nhớ chứ, nhớ về mọi khoảng khắc mà Tom lớn lên, về việc nó thường lẽo đẽo theo bác ra vườn hồi còn nhỏ, hay hai bố con nó cùng nhau đào giun đất trước mỗi chuyến đi câu. Chúng làm sao có thể phai nhạt được. Thế nhưng…” Bác mím môi lại, giơ hai tay ra và ôm lấy gương mặt tôi. Và tôi lại nhìn thấy dáng vẻ của Donna Sheridan trong đôi mắt bác một lần nữa. “Mấy đứa làm ơn đừng lớn lên thêm nữa có được không!”[1]
Tôi tủm tỉm cười. “Vâng. Bọn cháu sẽ cố hết sức.”
Harriet đưa ngón tay gạt đi giọt nước mắt đọng trên mi mắt bác. “Hứa được là phải làm được đấy nhé. Bác ghét phải thấy mấy đứa tiếp tục lớn lên lắm. Vì điều đó có nghĩa là bác cũng đang già đi,” bác nói, rồi làm hành động tặc lưỡi. “Được rồi được rồi. Bác cũng ghét phải khóc nữa. Nó sẽ làm những vết chân chim hai bên khóe mắt bác hiện rõ hơn. Giờ thì nhờ cháu đánh thức Tom dậy hộ bác nhé. Bữa tối sẽ được sẵn sàng trong vòng mười phút nữa.”
Tôi gật đầu, cảm thấy không ngăn được mình mà buột miệng gọi tên Harriet khi bác chuẩn bị rời đi. “Bác Halle…”
Bác quay lại nhìn tôi. “Gì thế, cháu yêu?”
Tôi muốn nói là tôi rất mến bác, cảm ơn bác đã chấp thuận chuyện tình cảm của tôi và Tom, nhưng bằng cách nào đó mà tôi đã kiềm chế bản thân lại được. “Cảm ơn bác đã chào đón cháu.”
Bác cầm lấy tay tôi và nở một nụ cười nhẹ. “Lại ngốc nữa rồi. Tất nhiên là cháu sẽ luôn được chào đón tại đây.”
Tôi đi đến bên giường, lay người Tom và cố đánh thức anh dậy, nói với anh rằng bữa tối đã được mẹ anh chuẩn bị xong xuôi và chúng tôi cần phải xuống dưới nhà ngay bây giờ! Tom lơ mơ tỉnh giấc, giống như cái cách mà tôi vẫn thường đánh thức anh vào mỗi sáng cuối tuần, với hai mắt nhắm nghiền cùng lời mặc cả hãy cho anh xin thêm năm phút nữa.
“Anh đã ngủ được bao lâu rồi?” Cuối cùng, anh hỏi.
“Gần hai tiếng rồi.”
Anh ngáp lớn, đưa tay lên rụi mắt. “Mới gần hai tiếng thôi sao? Thế mà anh có cảm giác như thể đã ngủ sang ngày mới rồi ấy.”
Tôi vuốt chỏm tóc mái đang bị dựng đứng lên của anh. “Chà, có vẻ như giấc ngủ ban nãy thực sự có tác dụng với anh đấy nhỉ?”
Anh thoải mái ra mặt, nhìn tôi lâu hơn mức bình thường. “Anh vừa có một giấc mơ kỳ lạ.”
Tôi nghiêng đầu. “Kỳ lạ tới mức nào?”
“Kỳ lạ tới mức… khó tin, ngay cả khi nó là một giấc mơ. Ồ, và em cũng có mặt tại đó nữa đấy. Nhưng trước hết, hãy cho anh xin một ngụm nước được không?”
Tôi vươn người về phía bình nước trên mặt tủ đầu giường, rót nước vào cốc và đưa nó cho anh.
Tom tu một hơi cạn tới tận đáy cốc, rồi tự trả nó về chỗ cũ. “Phải cảnh báo trước đó là một giấc mơ khá đáng sợ đối với em đấy nhé.”
“Thế cơ à?” Giọng tôi cao vống lên, ra vẻ như đang sợ hãi. “Nhưng cứ kể đi. Em hứa là sẽ không chạy trốn đâu.”
“Để xem,” anh nói, và dừng lại, để sự im lặng tạo bầu không khí. “Anh mơ thấy chúng ta chuyển về sống tại đây, trong ngôi nhà này, cùng với cô con gái bé bỏng của chúng ta.”
Tôi gần như đờ người ra, không phải vì anh nói mơ thấy chúng tôi chuyển về sống tại đây, trong ngôi nhà này, mà vì cái chi tiết “cô con gái bé bỏng” của chúng tôi. Vấn đề là, tôi yêu anh và vẫn luôn nhìn thấy viễn cảnh sẽ đi cùng anh trên một con đường rất dài, thậm chí có thể là đến hết cuộc đời này. Nhưng trong cái viễn cảnh đó của tôi chưa bao giờ tồn tại một đứa trẻ nào cả, và tôi cũng đã nói với anh về vấn đề này rồi. Tôi không thích trẻ con. “Ồ, cái đó thì đúng là lạ thật đấy, và vâng, nó khá là đáng sợ nữa. Có khi nào anh nhầm lẫn em với ai đó khác trong mơ không?”
Anh lắc đầu. “Không, người đó đích thực là em mà. Chưa kể việc chúng ta có con còn là ý tưởng của em nữa.”
Mặt tôi nhăn lại, tỏ ra ngờ vực anh. “Ừm, anh có chắc là anh vừa mơ thấy điều đó không thế? Khoa học nói rằng chúng ta có xu hướng quên sạch những gì đã gặp trong mơ sau khi thức dậy cơ mà. Làm sao giấc mơ của anh lại chi tiết đến thế được?”
“Nó chỉ đúng với mấy giấc mơ vô thưởng vô phạt thôi, còn những giấc mơ mang một ấn tượng khó phai thì lại khác. Con bé–”
Tôi cắt lời anh, bắt đầu cảm thấy hoảng thực sự. “Được rồi, hãy để chuyện này sau đi đã.” Tôi kéo tay lôi anh dậy, cố tìm ra cách nào đó để thoát khỏi chuyện “con cái” này. “Giờ chúng ta phải xuống dưới nhà ngay để dùng bữa tối cùng với bố mẹ anh. Em mà bị mất điểm trong mắt họ anh là lỗi của anh hết đấy.”
Anh đá tung chăn, cười với giọng thích chí. “Rõ là có sợ rồi nhé.”
Khi chúng tôi xuống nhà thì thấy Harriet đang bày biện đồ ăn lên chiếc bàn tròn giữa gian bếp. Món bà vừa đem lên là món Crown Roast, khá thú vị, gồm những miếng thịt sườn lợn xếp theo kiểu vương miện, nướng kèm với các loại hạt. Alfred cũng đã có mặt tại bàn, nhưng không phải để giúp vợ ông chuẩn bị bàn ăn. Ông lúc này đang bận rộn với chiếc iPad, dường như là đọc tin tức. Miệng ông liên tục lẩm bẩm câu gì đó đại loại như Hay, hay đấy. Phải thế chứ! và những ngón tay của ông liên tục thao tác trên màn hình, có vẻ là để lại bình luận trên trang báo hay một diễn đàn thể thao nào đó. Dựa trên phản ứng của ông, tôi đoán rằng Arsenal đã thắng trận đấu của họ.
“Vừa đúng lúc,” Harriet nói, kéo ghế ra giúp chúng tôi. “Mấy đứa mau mau ngồi vào bàn ăn đi.”
“Thơm quá ạ,” tôi nói, đưa mũi lên đánh hơi mùi thức ăn lẫn trong không khí. “Bác Halle, cháu sẽ cần bác cho công thức của món này.”
“Ồ, điều đó sẽ tốn của cháu một khoản phí không nhỏ đâu, cháu yêu,” bác đùa giỡn. “Và bác đang không nói đến chuyện tiền nong đâu đấy nhé.”
Tôi cười. “Cháu sẵn lòng trả mọi giá ạ.”
“Cái chân của bố thế nào rồi ạ?” Tom hỏi bố anh, ngụ ý muốn hỏi kết quả trận đấu thế nào rồi?
Alfred ngước lên nhìn Tom, cười khà khà cùng một cái nháy mắt cũng đầy ngụ ý. “Tốt, con trai. Thậm chí còn rất tốt nữa là đằng khác.”
Vậy là tôi đoán đúng, Arsenal đã thắng trận đấu của họ. Tôi để cho Tom thảo luận với bố anh về cái chân của ông và bước đến bên cạnh Harriet phía bên kia gian bếp. “Bác có việc gì cho cháu không ạ?”
Harriet cẩn thận trút nước sốt của món sườn lợn từ chảo nóng vào trong cái thuyền đựng nước sốt bằng gốm sứ trắng. “Điều mà bác cần nhất ở cháu là hãy giúp bác xử lý hết chỗ thức ăn bác nấu tối nay,” bác nói. “Bác nghĩ mình đã hơi vui tay mất rồi.”
“Cái đó thì bác yên tâm. Nếu cháu không làm được thì chúng ta vẫn còn ông vua diệt mồi ngay kia.”
Ánh mắt của tôi và bác gặp nhau, rồi cùng cười khúc khích. Khi Harriet đang chuẩn bị bưng cái thuyền đựng nước sốt ra chỗ bàn ăn, bác bảo với tôi rằng tự dưng bác lại cảm thấy thiếu thiếu một cái gì đó. Bác đặt cái thuyền bằng gốm sứ lên lại mặt quầy bếp, đưa mắt nhìn về phía bàn ăn, rà soát lại mọi thứ một lần nữa, và nhớ ra. Là rượu.
“Nick, phiền cháu lấy rượu vang giúp bác được chứ?” Bác hỏi.
Tôi gật đầu đồng ý ngay. “Vâng, bác cứ để cháu.”
“Thế thì tốt quá. Nó ở chỗ cái tủ treo đằng kia, phía trên đỉnh chiếc tủ lạnh.”
Cái tủ treo nằm trên một vị trí khá cao, tôi phải nhờ Tom bắc ghế mới có thể với lên được chỗ cái tủ. Trong tủ cất giữ rất nhiều các loại đồ đạc lỉnh kỉnh khác nhau mà tôi có lẽ sẽ phải lên một danh sách dài hai trang mới có thể liệt kê được hết tên gọi của chúng cho bạn, nhưng chủ yếu là đồ làm bếp lâu ngày không được dùng đến. Hai chai rượu vang đỏ nằm phủ bụi được tôi tìm thấy ở tít tận cùng ngăn tủ. Harriet bảo với tôi rằng đó là cách hai vợ chồng bác ngăn mình với những loại đồ uống chứa cồn, bởi vì họ đã có một tuổi trẻ khá dữ dội. Tôi thật sự bất ngờ khi nghe bác nói vậy, và cũng rất tò mò nữa, tự nhủ sẽ lát nữa sẽ hỏi bác về chuyện đó sau, khi cả bốn người chúng tôi đã ngà ngà say, bởi vì đó luôn là thời điểm thích hợp nhất. Bạn cũng biết đấy, rượu vào thì lời ra.
Harriet đưa cho tôi một chiếc khăn tay để lau bụi trên vỏ chai rượu. Cả hai chai đều là vang đỏ, được sản xuất từ năm 2014 và làm từ giống nho Cabernet Sauvignon, một giống nho đỏ thích hợp trồng trên loại đất sỏi quanh vùng Pauillac, phía tây nam miền quê nước Pháp. Một trong những nơi chuyên sản xuất ra những chai Bordeaux trứ danh.
Tôi đặt một chai vang lên quầy bếp và ngồi vào bàn ăn với chai còn lại, cùng lúc Tom trở lại bàn ăn với bốn ly thủy tinh vừa được tráng qua nước ấm và cái dụng cụ mở nút chai. Tôi xung phong lau khô các ly thủy tinh bằng một cái khăn tay (không phải là cái tôi đã dùng để lau bụi trên mấy chai vang ban nãy đâu nhé!), trong khi Tom mở nút chai và rót cho chúng tôi mỗi người một ly rượu. Bốn người chúng tôi tiến hành nhập cuộc ngay sau đó, cùng cụng ly và chúc nhau sức khỏe, chúc nhau một Lễ Tạ ơn an lành! Rời ly rượu khỏi môi, tôi nhìn gương mặt những người xung quanh khắp lượt. Họ đang rạng rỡ cười với nhau, với tôi, đầy thân mật. Ngay tại khoảnh khắc đó, tôi có cảm giác dường như chúng tôi đã là một gia đình.
Việc là khách mời danh dự đã biến tôi trở thành nhân vật chính bất đắc dĩ của bữa tiệc, tôi dành phần lớn thời gian để trả lời những câu hỏi của cặp vợ chồng Armitage. Harriet hỏi thăm tôi về chuyện tuổi tác và tình hình sức khỏe của bố mẹ tôi, còn Alfred hỏi liệu có phiền hà cho tôi khi tôi dành thời gian để đón Lễ Tạ ơn cùng gia đình họ mà không phải với gia đình tôi. Tôi gửi lời cảm ơn tới Harriet về lời hỏi thăm sức khỏe và trả lời bác rằng bố mẹ tôi năm nay đã sáu mươi ba và hai người vẫn còn rất khỏe. Đối với câu hỏi của Alfred, tôi nói tất nhiên là bố mẹ tôi không phiền lòng gì khi tôi dành thời gian để đón Lễ Tạ ơn cùng gia đình ông mà không phải với họ (mặc dù có một thực tế không thể chối cãi là mẹ tôi đã khá buồn khi tôi thông báo với bà về chuyện này, nhưng bà cảm thấy hạnh phúc cho tôi nhiều hơn tất cả).
“Mong cậu thứ lỗi cho đầu óc của ông già này nhé, Nick. Cậu làm việc tại Sở Cảnh sát cùng với con trai tôi nhỉ? Thế hai đứa có chung một đội không?”
Tôi đưa mắt nhìn Tom rồi lại cố hết sức để né tránh ánh mắt của anh khi anh nhìn lại. Tôi biết chẳng điều gì tốt hơn là một sự thành thật, nhưng liệu đó có phải là một ý tưởng hay vào lúc này? Nếu tôi thú nhận với Alfred rằng tôi đã nói dối ông trước đó, thì khả năng cao bầu không khí của cả buổi tối còn lại của chúng tôi sẽ bị phá hỏng. Vì vậy, tôi quyết định sẽ diễn vở kịch này tới cùng và thú nhận với ông vào một thời điểm nào đó thích hợp hơn. “Dạ, đúng thế, bác Alfred. Cháu và Tom cùng làm việc tại Sở. Nhưng vì năng lực hạn chế, nên cháu chủ yếu được phân công làm việc bàn giấy thôi ạ, chứ không được phép trực tiếp ra ngoài hiện trường như Tom.”
“Ồ, đừng tự đánh giá thấp mình như thế, Nick. Mọi đóng góp đều xứng đáng được ghi nhận mà,” Alfred nói với vẻ điềm đạm, nhưng tôi vẫn có thể cảm thấy giọng điệu tự hào ông dành cho Tom, hoặc là lòng thương hại ông dành cho tôi vì cái vụ làm việc bàn giấy. Và điều đó khiến tôi cảm thấy hơi xấu hổ, mặc dù tất cả vụ này đều là dựng chuyện.
Có một khoảng lặng ngắn trên bàn ăn ngay sau đó, và không biết là do tôi tự tưởng tượng ra, hay bầu không khí đang thực sự chùng xuống. Vì thế tôi mới đùa cợt. “Vâng, cháu ước gì mọi người đều có cái nhìn cởi mở như bác. Bác biết không, Alfred? Họ có một dãy bàn tầm thường dành riêng cho nhóm làm việc bàn giấy và dãy còn lại hoành tráng hơn dành cho những người làm việc trực tiếp tại hiện trường ở căng-tin của Sở. Thành thử mọi thứ ở dưới đó khá xấu xí và ngột ngạt, nếu bác hiểu ý cháu.”
Alfred cười phá lên, còn Tom thì tròn mắt nhìn tôi và thốt lên kiểu “Wow!”
Phản ứng của Tom khiến tôi nhận ra mình đã đưa mồm đi chơi hơi xa. Tôi chữa lại ngay. “Nhưng cháu chưa nói đủ hết sự thật, vì không phải ai cũng có tư tưởng phân biệt như vậy. Con trai bác, Tom, luôn là một người bạn hết sức tuyệt vời của cháu. Bằng chứng là nhờ vào anh ấy, cháu mới có cơ hội để có mặt tại đây và thưởng thức bữa tối tuyệt ngon này cùng mọi người.”
“Cứu cánh hay đấy.” Tom mấp máy môi nói với tôi và tôi cảm thấy nhẹ cả người.
“Bác thấy thế lại tốt ấy chứ, Nick.” Từ phía bên kia chiếc bàn tròn, Harriet nói với tôi, và nhấp rượu.
Tôi hướng mắt về phía Harriet. Cả hai má bác lúc này đã ửng hồng lên vì rượu. “Dạ?”
“Công việc của cháu: làm việc bàn giấy,” bác nói. “Ít ra thì nó sẽ giúp bố mẹ cháu không phải lo ngay ngáy mỗi ngày, rằng liệu con trai họ có đang được an toàn hay không.”
Tom huých nhẹ vào tay tôi. “Đấy, em chuẩn bị tinh thần nghe bài thuyết giảng của mẹ anh đi nhé.”
Harriet phản ứng lại ngay. “Bài thuyết giảng gì, thằng này? Lại bắt đầu nói xấu mẹ nữa đấy.”
Tom nhe răng cười, và lắc đầu. “Mẹ xỉn rồi kìa.”
“Ồ, đừng có mơ, con trai. Mẹ con đã từng hạ gục cả một hội nam sinh trong khoản chè chén này hồi còn học đại học đấy.” Harriet nói cười vui vẻ, còn giọng thì rất tươi tỉnh, và bác tiếp tục. “Mẹ đang rất tỉnh táo, đủ tỉnh táo để muốn nói với con rằng mẹ tự hào về con, Tom. À không, và cả Nick nữa. Mẹ tự hào về cả hai đứa. Đó là một thế giới tàn nhẫn ngoài kia, và những gì hai đứa đang cùng nhau đối mặt là một việc làm rất dũng cảm. Và vì lẽ thế, trong Lễ Tạ ơn năm nay, mẹ xin được cám ơn Chúa vì đã giữ cho những người yêu thương của mẹ được an toàn, và cám ơn Ngài đã mang tình yêu đến với họ.”
Tôi cảm nhận được sự tiếp xúc từ cái chạm của Tom lên chân tôi dưới gầm bàn. Cả hai chúng tôi sau đó đồng thời trao cho Harriet với một ánh mắt biết ơn và mỉm cười với bác. Tiếp tục là những tiếng cụng ly. Rồi buổi tối đáng yêu của chúng tôi bắt đầu tệ dần đi.
“Nhận tiện nói đến tình yêu, Tom. Con còn nhớ con bé lớn nhà Shultz chứ? Hai đứa đã có khoảng thời gian học cùng nhau hồi trung học đúng không nhỉ?” Alfred hỏi.
“Ừm… Là Olivia, phải không bố?”
“Đúng là con bé đấy đấy.”
“Vậy thì con còn nhớ. Nhưng cô ấy thì sao hả bố?”
“Con bé ấy rất chăm chỉ và ngoan ngoãn. Và không như hầu hết những đứa con gái khác tại thị trấn cứ đủ tuổi là tìm cách bỏ lên thành phố, con bé ấy vẫn còn ở đây, để giúp đỡ ông bà Shultz chăm sóc cho trang trại của họ. Bố thấy con bé đó khá được đấy.”
Tom nhăn mặt lại. “Vâng?”
“Còn vâng dạ gì nữa? Chẳng phải con bé đó đã đem lòng thầm thương trộm nhớ con từ hồi trung học rồi đấy sao? Điều may mắn là hiện tại con bé vẫn còn đang một thân một mình, và nó có vẻ vẫn còn tơ tưởng đến con lắm. Bố phát hiện ra điều này trong cái lần bố qua trang trại nhà Shultz mua sữa bò và trứng gà tươi. Con bé rất lấy làm tiếc vì chuyện huỷ hôn của con, nhưng đồng thời cũng rất… phải nói sao nhỉ... khá là sung sướng về điều đó. Bố có thể thấy rõ khoản này trong thái độ của con bé, không đùa đâu. Lúc đó, con bé đã xin bố số liên lạc của con nhưng bố đã khéo từ chối vì chưa biết ý con thế nào. Nhưng bố chấm điểm cao cho con bé ấy đấy. Phải thành thật là, nếu so riêng về khoản nhan sắc thì con bé thua hẳn... bạn gái cũ của con một bậc, nhưng đổi lại nó rất ngoan ngoãn và sống ở gần đây. Bố thấy hai đứa đến với nhau được đấy.”
“Tên của cô ấy là Jane, và nếu chỉ là chuyện mai mối thì con thấy không cần thiết đâu, bố ạ.”
“Ơ hay, sao lại không cần thiết? Cả hai đứa đều đã đến tuổi lập gia đình và bố thấy Olivia sẽ là một bà mẹ hoàn hảo để nuôi dạy những đứa trẻ. Phải chăng có điểm gì xấu ở con bé làm con không ưa nó sao?”
Tôi nhìn mọi người, rồi cúi gằm mặt xuống, và Harriet lên tiếng. “Ông này, tôi thiết nghĩ, nếu Tom bảo với chúng ta chuyện mai mối là không cần thiết, thì nghĩa là điều đó không cần thiết. Đừng cố thúc ép con quá thành ra khó xử cho tất cả. Và hơn hết, chúng ta cần phải tôn trọng sự quyết định của con.”
Alfred cãi cự lại ngay. “Gì chứ? Chẳng nhẽ việc tôi lo lắng cho tương lai của con trai tôi cũng là sai sao?”
“Không, bố không sai,” Tom nói, rồi sau đó anh nhìn nhanh sang tôi, và tôi cảm thấy thật hoảng sợ. “Sở dĩ con nói chuyện mai mối không cần thiết là bởi vì con đã có một người bên cạnh rồi, thưa bố.”
“Ồ? Thế thì tuyệt quá!” Alfred vỗ hai tay vào nhau, reo lên. “Người đó là ai? Hai đứa đã quen nhau bao lâu rồi? Tại sao con lại không nói cho bố mẹ biết, và tại sao lại không đưa bạn con về ra mắt bố mẹ?”
Dường như có cả hàng tỷ câu hỏi đã được Alfred thốt ra khỏi miệng ông trong vòng chưa đầy một phút đồng hồ, cùng tiếng mưa lộp độp rơi trên mái nhà nghe ngày một nặng hạt, và tiếng sấm lớn trên bầu trời cắt ngang qua đầu chúng tôi làm con Hạt Đậu lúc này đang ngồi chơi ngoài phòng khách sợ hãi chạy đến và nằm co rúm người lại bên chân của Tom, rên rỉ. Tôi nín thở, không biết làm gì hơn ngoài nhìn chằm chằm vào đĩa thức ăn, chờ đợi, hy vọng, đếm nhẩm đến mười. Và ngay tại giây phút ấy, Tom đã chủ động phá vỡ sự im lặng thống nhất giữa chúng tôi, bằng cách nắm lấy bàn tay tôi lúc này đang đặt ở trên bàn ăn. Trái tim tôi lập tức đập lên một nhịp trống rộn ràng. “Thật ra là có đấy ạ,” anh trả lời. Giọng anh nghe tuy lo lắng nhưng cũng thật vững vàng, tạo động lực giúp tôi không còn cảm thấy sợ nữa. Cả hai chúng tôi sau đó cùng nhìn về phía bố anh. “Con có đưa người con yêu về ra mắt bố mẹ, và em ấy đang ở ngay đây với chúng ta. Là Nick. Con và em ấy đang ở bên nhau.”
“Ôi, quả là một tin tức tuyệt vời. Mẹ mừng cho hai đứa,” Harriet nói ngay như thể đã tập rượt sẵn, đứng bật dậy khỏi bàn và đi về phía chúng tôi, dịch một chiếc ghế rồi ngồi xuống bên cạnh tôi, nắm lấy bàn tay tôi.
Lại một tiếng sấm khác phá vỡ khoảng lặng ngắn ở bên đối diện phía chúng tôi. Alfred như bị đánh thức bởi cơn dông ghê gớm. Khuôn mặt ông nhăn nhúm lại. “G-gượm đã. C-con bảo con và Nick đang ở bên n-nhau ư?” Ông ú ớ vì bị sốc. Nhưng chỉ vài giây sau, mặt ông bắt đầu đỏ lên rõ rệt. “Nhưng làm sao có thể? Nó là một thằng đàn ông mà!”
“Đúng vậy, bố ạ. Nick là một người đàn ông và con yêu em ấy. Và con hy vọng bố mẹ hạnh phúc cho mối quan hệ này của chúng con.”
“Ồ, đừng ngốc thế, con yêu. Tất nhiên là bố mẹ hạnh phúc cho hai đứa rồi.” Harriet cố gắng làm mọi thứ để ổn định tình hình. “Tất cả mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi mà.”
“Ổn ư? Tại sao bà có thể nói như vậy được, Harriet?” Alfred hét lên, quên hẳn cái tên thân mật của vợ. “Con trai bà vừa mới thừa nhận với chúng ta là nó yêu một thằng đàn ông đấy!”
“Điều đó thì có sao, Alfred? Thằng bé vẫn là con trai của chúng ta,” Harriet nói, vẫn cố giữ hòa khí giữa đôi bên.
“Thì có sao ư?” Alfred cao giọng, đã không còn giữ nổi sự điềm đạm vốn có. “Thì nó thật ghê tởm và trái tự nhiên!”
“Ông đang trở nên quá quắt và ngớ ngẩn rồi đấy, Alfred. Ông không được quyền xúc phạm bọn trẻ như thế!” Harriet nói, đã bắt đầu lớn tiếng hơn.
“Đừng có áp dụng sự ngu ngục của bà lên tôi, Harriet! Đó không phải là một sự xúc phạm. Nó không có thật. Tình yêu giữa hai người đàn ông không có thật. Và mối quan hệ của chúng thật GHÊ TỞM VÀ TRÁI TỰ NHIÊN!”
Mặt Harriet biến sắc, và đến lúc này thì bữa tiệc đã chuyển sang một màn cãi vã toàn tập. “Ông bảo ai là ngu ngục hả đồ lão già chết tiệt kia?”
“Bà...!” Alfred lầm bầm thêm một câu gì đó trước khi phớt lờ vợ ông và ném ánh mắt phẫn nộ của ông về phía tôi. Tôi bất chợt cảm thấy lo lắng cho sự an nguy của bản thân hơn bao giờ hết.
“Làm thế nào mà con lại biến thành loại người này?” Ông hỏi Tom. “Là bởi vì con đàn bà đó đã bỏ con hai tuần trước lễ cưới sao? Đừng có ngu ngốc như thế, Thomas! Con là một người đàn ông tốt và có cả tá phụ nữ ngoài kia sẵn sàng quỳ gối để được chăm sóc con cả đời. Vậy thì hà cớ gì mà con lại biến mình thành loại người như thế này?”
Tom không phản hồi lại câu hỏi này của Alfred, bởi vì anh đang cảm thấy quá sốc trước phản ứng của ông.
“Bác Alfred,” tôi nói, cố lựa chọn câu từ cẩn thận. “Chuyện của cháu và Tom–”
Ông cắt ngang họng tôi với một tia nhìn căm thù. “Đừng có gọi tên ta, đồ khốn khiếp.” Ông chỉ thẳng vào mặt tôi. “Là mi, có phải không? Chính mi đã tiêm nhiễm vào đầu con trai ta thứ tư tưởng bệnh hoạn này. Có phải không?”
Họng tôi cứng lại, mặt cắt không còn một giọt máu.
Harriet một lần nữa cứu lấy cái mạng của tôi. “Alfred, tôi yêu cầu ông ngừng ngay sự xúc phạm vô cớ này lại!”
“Bà còn mặt mũi mà lên tiếng được nữa sao?” Alfred ấm ức nói. “Chẳng phải chuyện thành ra cớ sự này đều là do lỗi bà ư?”
“Lỗi của tôi?”
“Phải, lỗi của bà. Là ai đã dung túng cho nó,” cái chỉ tay của Alfred chuyển hướng đến Tom, “ôm ấp thằng nhóc Do Thái ngay từ ngày nó còn bé chứ hả? Là bà!” Ông quát vào mặt vợ. “Hồi đó tôi đã ra sức tách hai đứa nó ra rất nhiều lần rồi, nhưng chính bà đã dung túng cho cái tư tưởng bệnh hoạn đó được sinh sôi trong tâm trí của con trai chúng ta. Chính bà là người đã đầu độc nó. Và giờ thì hãy nhìn lấy hậu quả của việc ‘để cho lũ trẻ được tự do phát triển’ của bà đi!”
Mặt Harriet nóng bừng bừng. “Alfred Reese Armitage. Tôi thực tình khuyên ông nên ngậm ngay cái miệng hàm hồ của ông lại!”
Những gì đang diễn ra trước mắt thật sự khiến tôi choáng váng toàn tập. Tôi bị sốc trước ánh mắt tức giận mà Harriet dành cho chồng lúc này, thậm chí còn sợ rằng họ sẽ lao vào nhau nếu không sớm được tách ra mất.
Thế rồi, Alfred ra dấu về hướng cửa, đưa ra tối hậu thư cho chúng tôi. “Hai đứa chúng nó cần phải cút ngay khỏi đây!”
“Lũ trẻ sẽ không đi đâu hết!” Harriet phản đối. “Đây là nhà chúng, và ngoài trời thì đang mưa lớn thế kia.”
“Tốt thôi.” Cuối cùng, ông kết luận. “Vậy thì người ra đi sẽ là tôi!”
Thật khó để cho rằng đây là chủ ý của Alfred, nhưng khi ông giận dữ đập tay xuống bàn, ông đã làm vỡ chiếc đĩa sứ đựng đồ ăn, khiến một mảnh sành vô tình cắt vào phần thịt mềm bên má lòng bàn tay phải của ông, và làm cho những tia máu phun ra từ tay ông văng lên khắp mặt bàn, lên những đĩa thức ăn, lên cả ghế ngồi cùng chỗ sàn nhà nơi ông đứng.
“Ôi, Chúa ơi! Bác Alfred.” Tôi thét lên trước cảnh tượng máu me kinh hoàng.
Tom hớt hải đứng dậy. “Bố!...”
Alfred gạt phắt tay anh ra, và tôi có cảm giác Tom thực sự sợ hãi trước áp lực toát ra từ ánh mắt giận dữ của bố anh đang áp lên anh lúc này. “Đừng có động vào ta!” Ông yêu cầu anh. “Ta thà mất máu rồi chết luôn còn hơn là phải chấp nhận cái sự thật kinh tởm này.”
Tom ngồi thụp xuống ghế, tổn thương và sốc, bần thần nhìn bố anh bỏ về hướng đi căn phòng cuối hành lang, rồi sụp đổ hẳn sau tiếng đóng cửa như một lời tuyên bố, một lời khẳng định chắc nịch của riêng ông, rằng ông coi như đã không còn anh nữa.
Không lâu sau đó, Harriet cũng đứng dậy. Bác nhìn chúng tôi với một ánh mắt vô cùng khó xử, và thở dài. “Hai đứa ngồi đây đi, còn mẹ sẽ đi xem tình trạng của ông ấy. Mẹ rất tiếc khi bữa tối nay lại thành ra như thế này.”
[1] Câu nói này được trích từ lời thoại của nhân vật Donna Sheridan khi bà gặp lại những người bạn của con gái bà, trong ngày cả hai từ đất liền đến khách sạn ngoài đảo của bà để làm phù dâu cho con gái của bà – Sophie. Nguyên văn: Stop growing!
Bình luận
Chưa có bình luận