“Để em chiêm ngưỡng cái nhẫn nào.” Tôi đã phải chờ đợi rất lâu để được làm điều này, vì Jane như thể đã thuộc về tất cả mọi người ngay sau khi chiếc nhẫn đính hôn lồng vào ngón tay chị, và ai nấy cũng đều muốn được tận mắt chứng kiến chiếc nhẫn. Hoặc đơn giản thì đó là cách dễ dàng nhất để gửi gắm thông tin đến hai anh chị rằng họ cũng có mặt tại đây. Tôi nâng bàn tay của Jane lên và xăm xoi cái nhẫn đính hôn có đá chủ là một viên kim cương trắng lớn cùng một nửa đai nhẫn nạm kim cương tấm, sáng lấp lánh trên đốt ngón tay chị. Xuýt xoa. “Chà, giá trị của nó ít nhất cũng phải bằng nửa năm lương của chị em mình.”
“Thôi ngay cái trò so sánh đó đi, đồ quỷ,” Jane đánh nhẹ vào tay tôi, rồi chị nhấp nốt chỗ sâm-panh còn lại từ ly rượu chúc mừng.
Tôi cười. “Em hạnh phúc cho chị, thật đấy.”
“Chị biết. Và phải công nhận, chị bị ấn tượng mạnh với kế hoạch cầu hôn tài tình này của em đấy.”
Với một cái nhíu mày nhẹ, Elliott nói: “Làm sao mà em biết kế hoạch này không xuất phát từ anh cơ chứ?”
Jane đứng tựa lưng vào ngực Elliott và ấp lòng bàn tay chị lên trên bàn tay anh lúc này đang ôm lấy bờ vai chị. “Thôi nào, anh yêu. Tất cả chúng ta đều biết nếu anh là người lên kế hoạch, thì chắc chắn ở đó sẽ có một màn kết bắn pháo hoa hoành tráng và những con ngựa bạch dạo bộ.”
Anh cúi xuống hôn lên môi chị. “Em quả là biết rất rõ anh mà.”
“Cho phép anh chen ngang một tí được không?” Là người im lặng suốt nãy giờ, Tom bất ngờ cất tiếng, lần đầu tiên, kể từ khi màn cầu hôn kết thúc tốt đẹp.
Chúng tôi đổ dồn ánh mắt về phía anh và điều này dễ dàng khiến anh cảm thấy ngại. Anh hắng giọng, sau đó nâng ly sâm-panh trong tay lên giữa không trung. “Điều này sẽ ngắn gọn thôi. Anh muốn gửi lời chúc phúc chân thành nhất tới hai người. Đặc biệt là Elliott. Jane là một người phụ nữ phi thường, và tôi biết mình không cần phải thể hiện bằng lời thì cậu cũng đã biết là cô ấy đặc biệt tới mức nào rồi mà, nhỉ?” Ba người chúng tôi bật cười. “Jane luôn xứng đáng với những điều tốt đẹp nhất, vì trái tim nhân hậu và sự cao cả của cô ấy. Chúa biết điều đó. Và điều đó cũng rất quan trọng với tôi khi trong hơn bảy tỷ người có mặt trên thế giới này, cô ấy đã tìm thấy một nửa tốt nhất của mình. Chúc mừng hai cậu.”
“Ôi, Tom.” Jane vươn tới trước và vòng hai tay qua người để ôm lấy lưng anh, kéo anh lại gần chị. “Cảm ơn anh vì lời chúc phúc. Điều đó có ý nghĩa rất lớn đối với em.”
Không, cảm ơn em, anh thì thầm vào tai chị. Vì đã xuất hiện trong cuộc đời anh.
“Cảm ơn cậu,” Elliott nói, với giọng hạ xuống tới mức trầm, cho thấy anh đang nghiêm túc tới mức nào. “Tôi sẽ trân trọng cô ấy bằng cả mạng sống của mình.”
“Ồ, anh bạn tốt nhất nên thế,” Tom dí dỏm đáp lại. “Hoặc để trích dẫn lời của Ross Geller[1]: “Nếu cậu có bao giờ tổn thương cô gái của tôi, hoặc có làm bất cứ điều gì khiến cô ấy không hạnh phúc. Tôi sẽ săn lùng cậu và đá đít cậu.”[2] Tôi rất nghiêm túc đấy.”
“Tôi tin cậu,” Elliott nói, và cười lớn. “Được rồi, gạt chuyện ‘đá đít’ qua một bên. Giờ chúng ta sẽ đi nơi nào đó ăn mừng thôi nhỉ?”
“Đồng ý,” Tom nói, và tôi lặp lại lời anh.
Từ những gì tôi thấy, có một điều gì đó không đúng vừa thoáng xuất hiện trên gương mặt của Jane. Như thể đề xuất chúng tôi “đi một nơi nào đó ăn mừng” của Elliott là một ý tưởng tồi tệ vậy. Chị giữ tay vị hôn phu của mình lại. “Ồ, Lio, rất tiếc là Tom và Nick không thể tham gia với chúng ta được đâu. Họ có việc rất quan trọng cần phải làm ngay trong tối nay.”
Trán tôi nhăn lại, nhìn Jane rồi nhìn Tom. “Việc quan trọng gì cơ?”
Elliott ngập ngừng. “Nhưng Tom vừa mới đồng ý với anh mà.”
Tom cố tỏ ra bình thường, song tôi để ý thấy sự dao động trong ánh mắt của anh khi anh liếc nhìn trộm tôi; cái điệu bộ đặc trưng chẳng thể lẫn đi đâu được mỗi khi anh cố gắng che giấu một điều gì đó. Nhìn vào vẻ này, có ai mà ngờ anh lại là một Điều tra viên ưu tú cơ chứ. “Em có chắc về điều đó không, Jane?” Sự do dự tràn ngập giọng nói của anh. “Bọn anh luôn có thể gác “công việc” lại mà. Và hôm nay là ngày đặc biệt của em.”
“Em chắc chắn đấy, Tom,” chị nói, đầy vững vàng với đôi mắt cười. “Hãy đi đi. Cùng với Nick. Bọn em sẽ gặp lại anh sau.”
Chia tay Jane và Elliott, chúng tôi rời khỏi rạp chiếu phim để về nhà và làm “cái việc quan trọng cần phải làm ngay trong tối nay” mà tôi hoàn toàn mù tịt về nó. Khoảng thời gian ngồi trong xe cùng Tom mười phút sau đó là mười phút xa lạ nhất kể từ khi tôi và anh bên nhau. Tôi phần nào biết mình đang quá nhạy cảm, và kể cả với đôi mắt nhắm nghiền, tôi vẫn sẽ không nói thứ mà bản thân tôi đang trải qua là cảm giác ngờ vực hoặc thiếu tin tưởng nơi anh. Bởi điều đó hoàn toàn không đúng; tôi luôn yêu và đặt lòng tin tuyệt đối vào anh. Mặt khác, tôi thậm chí còn tự khó chịu với chính mình vì sự vô lý này của bản thân. Tôi đang cảm thấy mông lung và hoài nghi vì điều gì? Thế rồi vẫn trong trạng thái tâm lý đó, tôi bỗng vô tình nghĩ về Matt và nghĩ về nỗi đau ám ảnh có từ sự đổ vỡ trước đó của chúng tôi, và nhận ra cảm giác mông lung này khả năng lớn đang xuất phát từ cơn hậu chấn tâm lý phía sau sự đổ vỡ ấy; niềm hạnh phúc quá lớn khi ở bên Tom đã khiến tôi quên béng mất mình đã từng bị tổn thương đến thế nào. Tôi nhớ lại những lần Matt nói dối tôi trước khi mọi sự vỡ lở, để tìm cách viện cớ cho những buổi huỷ hẹn không lý do và những ngày anh đột ngột biến mất cốt là để dành thời gian vun đắp tình cảm bên người vợ sắp cưới của anh. Giờ đây, một phần nào đó của quá trình ấy đang lặp lại. Lặp lại ở chỗ tôi biết Tom đang che giấu một điều gì đó khỏi tôi, nên cơ chế phòng thủ ngày nào trong tôi đã được tái kích hoạt. Như một nhu cầu khẩn khiết. Nhưng sau khi lý giải được về nguyên do của sự tái kích hoạt cơ chế phòng thủ này, tôi đã nhẹ lòng đi rất nhiều. Bởi vì hơn ai hết, tôi biết mối lương duyên giữa tôi và Tom và tôi và Matt là hai câu chuyện hoàn toàn khác nhau.
“Nick,” anh gọi tên tôi.
“Vâng?”
“Em đã im lặng từ nãy đến giờ rồi.”
“Chỉ là.” Tôi suy nghĩ nhanh về điều mình muốn nói, rồi quay sang anh. “Em đang mải nghĩ về ly martini mà Jane cầm trên tay lúc này thôi.”
“Anh sẵn lòng pha martini cho chúng ta khi về nhà.”
“Nhưng nó sẽ không thể ngon bằng ngoài quán được.”
“Ôi, cú đó đau thật đấy.” Anh làm ra vẻ tự ái. Tôi vươn người sang và hôn lên má để dỗ dành anh.
“Công bằng mà nói, anh biết em đang có khoảng năm nghìn câu hỏi cho anh lúc này.”
“Có lẽ–” Tôi bỏ ngang câu nói vì nhận ra Tom vừa lái xe vượt quá khúc rẽ dẫn vào đại lộ Los Robles, con đường ngắn nhất đưa chúng tôi về nhà. “Ấy? Anh đi lố đường rồi kìa.”
“Không sao.” Anh ngước lên nhìn con đường hướng sau lưng chúng tôi qua tấm kính chiếu hậu. “Chúng ta sẽ đến chỗ này trước rồi mới về nhà.”
“Chỗ nào?”
“Bí mật.”
Pasadena về đêm gợi lại trong tôi cảm giác yên bình hiếm thấy từ hồi còn ở Thị trấn Nhỏ, nơi những con phố không có hàng tá những chiếc xe chạy ngang dọc như một căn phòng bày đầy đồ chơi của cô cháu gái Elizabeth bé bỏng, và bầu không khí không còn cái nóng khắc nghiệt của mặt trời, bí bách và dễ dàng đẩy tôi rơi vào tình trạng của một cái khăn bị vắt kiệt nước. Bây giờ, cảnh vật đã trở nên quen thuộc hơn với tôi khi Tom rẽ vào đường Walnut. Tôi cười khúc khích khi lại nhìn thấy tấm biển nha khoa vừa to vừa lố bịch, có hình thù của một cái răng đầy đủ mắt mũi chân tay, đang khoác trên người chiếc bờ-lu trắng và hiện mình trong bóng tối trông không khác nào một phiên bản thừa cân của con ma thân thiện Casper[3], làm tôi luôn phải đặt ra câu hỏi về gu thẩm mỹ của tay chủ phòng khám này mỗi lần lái xe ngang qua đây; cái nhà hàng Hàn Quốc nằm ở góc ngã tư đường Michigan luôn đông khách vào mỗi tối thứ Năm nhờ vào chương trình giảm giá mua 1 tặng 1 mà cả tôi và Tom đều mê mẩn món gà sốt cay của họ; văn phòng của UPS, và Target.
“Tom, anh đang đưa chúng ta đang quay lại chung cư cũ đấy à?”
Anh tủm tỉm cười. “Bị em đoán ra mất rồi.”
“Nhưng anh biết là chúng ta đã không còn sống ở đó nữa mà, đúng chứ?”
“Chúng ta thì không, nhưng những kỷ niệm của chúng ta thì có.”
Vẫn là con đường dẫn vào bãi đỗ xe uốn cong như một con ngõ nhỏ và các bờ tường chi chít các bức vẽ graffiti cùng cái hàng rào mắt cáo quen thuộc, chúng tôi đậu xe bên cạnh chiếc bán tải Ram màu xanh biển trong bãi đậu của tòa nhà. Khi đèn trong xe vừa tắt, một cái bóng đen xù xì không rõ từ đâu xuất hiện đột ngột nhảy xuống nắp ca-pô chiếc Toyota và rít lên đầy giận dữ. Đôi mắt phát sáng trong đêm của cái bóng giúp chúng tôi nhận ra đó không phải là một nhân vật nào xa lạ, mà là con mèo đen của bà Milford, người quả phụ sống tại căn hộ 3A. Con mèo có một mối thù sâu sắc với Tom, kể từ cái lần anh vô tình dẫm trúng đuôi của nó trong buổi tối không may đi từ bãi đậu xe vào nhà.
“Lạy Chúa, thứ đáng nguyền rủa này. Có ngày mày làm tao lên cơn đau tim mà chết mất,” Tom thốt lên, ôm tim. “Tao phải nói xin lỗi bao nhiêu lần nữa thì mày mới chịu buông tha cho tao đây hả?”
Khoảng hai mươi nghìn một trăm sáu mươi lần thì sao, tôi tưởng tượng ra lời oán trách của con mèo khi nó rít lên, cho mỗi phút mi khiến cái đuôi đẹp đẽ của ta bị cạo trụi lông để người ta bó bột.
“Ồ, xem ai xuất hiện kìa?” Tôi huých nhẹ vào tay anh. “Tom, là bạn cũ của anh này.”
“Em hãy nhìn vào đôi mắt của nó xem,” anh bảo với tôi. “Rõ ràng là thứ này bị quỷ ám.”
“Thôi nào, vui vẻ lên đi chứ. Ít ra thì vẫn có người chào đón anh trở về.”
Mặt anh xị xuống. “Có mỗi em thấy vui thôi, vì em đâu là người phải trả những năm trăm đô chỉ để sơn lại hàng tá vết móng cào dọc thân xe.” Rồi, anh quát vào mặt con mèo. “Phải đấy. Tao biết thủ phạm của vụ đó là mày đấy, đồ quỷ ám!”
Tôi cười lớn. “Được rồi. Để em xuống đưa con mèo đi chỗ khác.”
Anh hoảng hốt ngăn tôi lại. “Ôi, Nick, đừng. Đừng làm người hùng.”
Tôi bỏ qua lời ngăn cản của Tom và mở cửa xe bước ra ngoài, vẫn phải cười thêm một lúc mới ngưng hẳn. Mà cái giống mèo Ba Tư này kể ra cũng lạ lắm. Mặc dù như thể sắp sửa lao vào trận chiến một mất một còn với Tom đến nơi, song nó lại dễ dàng để tôi vuốt ve mà chẳng có chút phản kháng cụ thể nào. Tôi bế bổng con mèo lên, nựng nó trong tay mong phần nào hành động này sẽ giúp nó xoa dịu cảm xúc. “Xin hãy tha cho anh ấy một ngày.” Tôi thì thầm vào tai con mèo trước khi đặt nó xuống đất và thứ lắm lông ấy hòa nhã dụi đầu vào tay tôi, rồi quay lại nhìn Tom năm giây không chớp với ánh mắt không thay đổi, trước khi rít lên một tiếng ghê gớm rồi mới chịu bỏ đi. Tên phàm nhân đáng chết. Ta vì nể mặt anh bạn đáng mến này mà tha mạng cho mi buổi hôm nay đấy, tôi lại tưởng tượng ra giọng điệu chua ngoa của con mèo.
“Giờ thì anh có thể ra ngoài được rồi,” tôi nói.
“Nó đi thật rồi à?”
“Thật.”
Tom lò dò bước xuống xe một cách đề phòng và rón chân đi về phía cuối đuôi xe. Sau đó anh mở cốp xe bằng chìa khóa thông minh và lôi ra một cái túi đen có dây khóa kéo khá lớn.
“Cái đó có phải là...”
“Đúng thế,” anh xách cái túi lên cao và nói, “bộ kính viễn vọng của anh.”
“Chúng ta sẽ làm gì với nó?”
“Để ngắm sao, tất nhiên là thế rồi.” Rồi anh nắm chặt lấy tay tôi và kéo đi. “Anh không thật sự sợ con mèo đó chút nào, em biết chứ?” Tôi vui vẻ đáp lại anh rằng tôi biết. “Nhưng ta hãy cứ rời khỏi đây đi đã. Ai mà biết thứ quỷ ám ấy sẽ quay lại lúc nào.”
Vì đã trao trả lại bộ chìa khóa cho chủ tòa nhà khi chuyển đến nơi ở mới, nên chúng tôi buộc phải di chuyển lên tầng thượng bằng lối cầu thang thoát hiểm ngoài trời. Không giống như lúc xẩm tối, bầu trời hiện tại quang mây và hầu như không có gió. Tôi để Tom đi trước và sự yên lặng của khu vực xung quanh khiến sức nặng cơ thể anh nghe rõ ràng hơn mỗi lần anh đặt chân lên bậc thang kim loại.
“Cứ như thể nó đang móc mỉa anh vậy.” Tom càu nhàu với tôi về cái cầu thang cọt kẹt. “Có vẻ như đây là tín hiệu của vũ trụ báo hiệu anh cần phải giảm đi vài cân.”
“Anh thậm chí đừng hòng nghĩ về điều đó,” tôi bảo với anh. “Đối với em, anh bây giờ trông “ngon nghẻ” hơn bao giờ hết. Và em không bỏ ra cả đống tiền đi chợ hàng tuần chỉ để nghe anh đòi giảm cân đâu.”
Anh cười nhe răng. “Rõ rồi, thưa sếp.”
“Thế giờ chúng ta sẽ nói chuyện về lý do anh bỗng dưng nổi hứng đưa ta đi ngắm sao chứ?”
Anh quay lại nhìn tôi. “Em còn nhớ trong lần hẹn hò đầu tiên của chúng ta trên cái sân thượng này, em đã bảo với anh rằng em muốn học hỏi thêm về thiên văn học không?”
“Em tưởng anh không công nhận đó là buổi hẹn hò đầu tiên của chúng ta?”
“Ừ thì, chỉ tính duy nhất lần này, nó có.”
“Duyệt,” tôi nói. “Vậy chúng ta sẽ ngắm ngôi sao nào tối nay?”
“Hai ta sẽ không ngắm ngôi sao nào cụ thể tối nay, mà là mưa sao băng,” anh đáp. “Tối nay là ngày cực đại của mưa sao băng Thiên Cầm.”
Tôi dừng bước, hai hàng lông mày cau lại. “Được rồi, anh bạn. Dù em chẳng biết tí gì về thiên văn học, nhưng chẳng phải mưa sao băng có thể nhìn thấy bằng mắt thường và chúng thường bay quá nhanh để quan sát với kính viễn vọng à?”
Anh làm vẻ mặt tươi tỉnh. “Mưa sao băng của em thì không, nhưng của anh thì có.”
Sân thượng lúc này không có người, mà nói đúng ra thì nó chẳng bao giờ có người, ngoài hai vị khách ghé thăm thường xuyên là tôi và Tom. Rời lối cầu thang thoát hiểm, chúng tôi di chuyển về phía đông bắc của sân thượng - hướng lý tưởng nhất để quan sát mưa sao băng Thiên Cầm.
Tôi nhìn lên bầu trời và hỏi, “Mỗi giờ sẽ có khoảng bao nhiêu sao băng rơi hả anh?”
“Khoảng từ mười tám tới hai mươi.”
“Khoảng từ mười tám tới hai mươi ư?”
“Đúng thế. Và chúng sẽ tiếp diễn như vậy từ nửa đêm cho tới tận rạng sáng.”
“Chà, đó là cả đống điều ước cần phải ước chỉ trong một đêm đấy nhỉ? Cũng may là em có một bản danh sách dài với hàng trăm cái tên của người nổi tiếng mà em muốn gặp mặt,” tôi nói. “Hy vọng sẽ không một cái tên nào trong số đó kết thúc bằng một lệnh cách ly.”
Tom phì cười với câu nói đùa của tôi. Sau đó anh nhẹ nhàng đặt cái túi xách lên trên nền đất, kéo khóa và bắt đầu tiến hành lắp ráp chiếc kính viễn vọng. Đầu tiên, anh nới dài chiếc đế ba chân màu bạc vượt quá chiều cao của gờ lan can theo phương thẳng đứng, rồi kéo chúng về ba hướng cho tới khi nẹp giữa khớp vào đúng vị trí, và vặn các nút để cố định chân đế lại. Tiếp đó anh đặt tấm khay phụ kiện màu đen có một lỗ khóa ở giữa lên trên cái nẹp và xoay cho đến khi các mấu của ba điểm ở khay bắt vào các cánh tay của chiếc nẹp một cách chắc chắn nhất. Tôi tò mò ngó thử vào trong chiếc túi xách của anh và thấy còn hàng đống những phụ kiện khác cần phải lắp ráp.
“Chà, có nhiều chi tiết cần xử lý thật đấy.”
“Nó không thực sự tốn quá nhiều thời gian, một khi em đã quen với tiến trình này.”
“Trông nó có vẻ đắt. Anh mua nó bao nhiêu?”
“Xấp xỉ 600 đô,” anh đáp, cẩn trọng nhấc cái ống kính viễn vọng ra khỏi chiếc túi. Cái ống kính có màu đen tuyền, và vẻ ngoài ấn tượng của nó khiến tôi thoáng liên tưởng đến khẩu súng cối mà tôi từng thấy trong một tập phim tài liệu nói về chiến tranh thế giới thứ nhất trên kênh Discovery.“Nhưng em đâu thể đặt vị trí của tiền bạc lên trên niềm đam mê, phải không? Ý anh là, hãy nhìn anh và tất cả những khoản tiền em đổ vào việc mua sắm đồ ăn cho anh mà xem.”
Tôi đặt tay lên bụng anh và xoa nhẹ. “Đáng giá đến từng xu luôn.”
Kia. Trên bầu trời. Một vệt sáng chạy xoẹt qua phía trên đầu chúng tôi. Vệt sáng xanh ấy bất chợt xuất hiện từ giữa hư không, rồi sau đó mất dạng vào phía sau những tòa nhà nằm im lìm trong bóng tối cuối đằng chân trời chỉ trong khoảng thời gian không hơn ba giây.
“Sao băng. Em thấy nó rồi!” Tôi reo lên.
Tom ngẩng cổ lên nhìn từ khoảng cách giữa ống kính viễn vọng và cái đế ba chân. “Ở đâu?”
“Hướng hai giờ,” tôi đáp, và chỉ tay về hướng đó. “Nó xuất hiện rất nhanh và đã biến mất rồi.”
“Thế em có kịp ước gì không?”
Tôi nhìn về phía anh và tự hỏi liệu tôi còn có thể ước điều gì nữa, khi tôi đã có tất cả những gì mình muốn rồi. “Không hẳn. Em nghĩ mình đã lẫn lộn tên của Chris Hemsworth và Bradley Cooper mất rồi.”
“Anh tự hỏi sẽ trông thế nào giữa sự kết hợp của vị Thần Sấm và một con gấu mèo[4].” Anh buông lời đùa, rồi quay lại với việc lắp ráp chiếc ống kính.
Từ góc chín giờ, một vệt sáng xanh khác cắt ngang bầu trời.
“Một ngôi sao băng khác nữa kìa.”
Tom cười, song anh không ngẩng đầu lên theo tiếng reo hò của tôi mà tập trung hoàn thành xong việc lắp ráp ống kính viễn vọng. “Giọng em nghe giống hệt anh khi lần đầu tiên đặt chân đến California vậy.” Bây giờ, anh đang điều chỉnh góc độ của chiếc ống kính, nhưng không phải hướng nó lên bầu trời, mà là về một góc nào đó của Pasadena.
Thêm một vệt sáng xanh khác.
“Hãy quên cái ống kính đi, Tom. Anh đang thực sự bỏ lỡ điều kỳ diệu này đấy.”
Trái ngược với niềm phấn khích của tôi. Anh không thực sự để ý đến ngôi sao băng mà đang nhắn tin với một ai đó trên điện thoại. Rồi sau đó anh quay sang tôi và nói, “Nó đã sẵn sàng rồi.”
Mặt tôi thộn ra. “Anh bảo cái gì đã sẵn sàng cơ?”
“Sao băng của anh,” anh trả lời, rồi từ từ đứng lùi xa khỏi chiếc ống kính viễn vọng. “Em hãy nhìn vào đây đi.”
Tôi tò mò lại gần ống kính viễn vọng và nhìn vào nó. Việc lần đầu sử dụng ống kính viễn vọng khiến tôi phải mất chút thời gian để làm quen với nó. Và khi đã làm quen với nó, từ hướng Tom đặt sẵn ống kính, tôi thấy bóng dáng quen thuộc của một người phụ nữ đang đứng vẫy tay với tôi trên sân thượng hướng tòa nhà đối diện cách chúng tôi khá xa.
“Kia có phải là... chị Jane không?” Tôi sửng sốt ngẩng lên nhìn Tom. “Chị ấy đang làm gì ở đó thế?”
“Hãy cứ nhìn tiếp đi,” anh nhẹ nhàng bảo tôi.
Tôi nhanh chóng nheo mắt nhòm vào ống kính lần nữa. Ở lần này, tôi thấy Elliott xuất hiện bên cạnh Jane. Hai người bọn họ đang làm một việc gì đó với những đoạn dây màu đen rất dài với Jane cầm một vật trông giống như đầu phích cắm, còn Elliott cầm một vật trông giống như cái ổ điện. Rồi hai anh chị đấu những vật đó vào với nhau, và khoảng sân thượng tối om phía sau lưng họ lập tức được thắp sáng lên bằng những bóng đèn dây được xếp theo tạo hình của một ngôi sao băng, với dòng chữ nổi bật nằm tại khoảng trống phía giữa.
HÃY LẤY ANH NHÉ!
Ôi, Chúa tôi. Điều này đang thật sự diễn ra đấy ư? Tôi bỗng cảm thấy mắt mình nhòe đi trông thấy và đôi chân không tài nào đứng vững nổi. Khi tôi còn đang run rẩy, cố gắng đấu tranh từng chút một với lý trí để tìm lại hơi thở của mình, thì Tom đã quỳ gối ngay bên cạnh tôi, với một hộp nhẫn bọc vải nhung đỏ được anh nâng niu giữa hai lòng bàn tay.
“Anh đã ước điều ước của mình rồi. Em sẽ biến nó thành sự thật chứ?”
Vào thời điểm những năm 2073 bây giờ, khi cả tôi và Jane đều đã ở ngưỡng tuổi gần đất xa trời, hai chị em tôi vẫn thường đùa với nhau về những gì xảy ra vào cái đêm hôm đó, rằng chúng tôi thực sự mới là những người đã cầu hôn lẫn nhau, chứ không phải những ông chồng khờ khạo của chúng tôi. Hóa ra trong lúc tôi bận rộn giúp Elliott tổ chức một buổi cầu hôn đáng nhớ cho chị, thì chính chị cũng đang tìm cách để giúp Tom cầu hôn với tôi. Và cái ngày đáng nhớ này chính là kết quả ngọt ngào của điều bất ngờ không tưởng ấy.
Tôi và Tom đã dành thời gian cả đêm hôm đó để ở bên nhau trên sân thượng và khiêu vũ. Khi tôi hỏi anh, “Em tưởng anh miêu tả trong tiểu sử của mình anh là một kẻ “nằm ngoài vòng hỗn loạn của chủ nghĩa lãng mạn”, nhưng đêm nay là một đêm khá lãng mạn đấy. Điều gì đã thay đổi vậy?” Anh đã ngân nga theo một đoạn của bài hát Chuyến tàu đêm tới Georgia[5] đang phát trên Spotify để thay cho câu trả lời. “Bởi vì anh thà sống trong thế giới của em. Còn hơn là sống thiếu em, ở trong thế giới của anh[6].”
[1] Nhân vật hư câu trong chương trình phim truyền hình F.R.I.E.N.D.S.
[2] Nguyên văn: If you ever hurt my little sister; if you ever cause her any unhappiness of any kind. I will hunt you down, and kick your ass.
[3] Casper the Friendly Ghost, một nhân vật hoạt hình nổi tiếng.
[4] Hai nhân vật hư cấu trong loạt phim điện ảnh của hãng Marvel, do Chris Hemsworth và Bradley Cooper thủ vai.
[5] Tên gốc: Midnight Train to Georgia.
[6] Nguyên văn: I’d rather live in his world, than live without him in mine.
Bình luận
Chưa có bình luận