Tôi biết ngay từ khi bắt đầu, tôi đã nói với bạn rằng tôi không ở đây để kể cho bạn nghe về thế giới của chúng ta đã thay đổi ra sao kể từ năm 2020 - cái năm mà đại dịch Covid bắt đầu nhen nhóm và thay đổi hoàn toàn bộ mặt thế giới mà những người cùng thời với tôi từng biết tới chỉ trong vòng một năm sau đó. Và đúng là tôi sẽ làm thế, tôi sẽ không kể với bạn về những sự thay đổi ấy. Nhưng tôi vẫn xin mạn phép dành ra vài lời dưới đây để nói cho bạn hay về những mất mát của thế giới mà cái đại dịch khủng khiếp này đã cướp đi, bởi vì sức ảnh hưởng của nó là quá lớn.
Kể từ khi xuất hiện vào đầu năm 2020 cho tới khi nó kết thúc, đại dịch Covid đã lấy đi sinh mạng của hơn sáu triệu người và làm cho cuộc sống của hàng tỷ người khác bị ảnh hưởng một cách nghiêm trọng. Những ước mơ và hoài bão bị tước đoạt; những gia đình mất đi thành viên yêu dấu; những thế hệ trẻ em được sinh ra và lớn lên cùng chiếc khẩu trang và nước diệt khuẩn. Thiếu thốn đủ loại nhu yếu phẩm. Đói khát sinh tệ nạn. Có lẽ ở thời điểm hiện tại, khi những giới hạn về địa lý bị xóa nhòa và chúng ta đã quá quen thuộc với việc di chuyển từ vùng đất này qua vùng đất khác chỉ bằng một “cú nhảy”, sẽ thật khó để bạn có thể hình dung ra một thế giới mà hầu hết mọi người đã bị cầm tù hàng tháng trời trong ngôi nhà của chính họ, vì những lệnh giới nghiêm được chính quyền ban xuống. Rất khó tin, nhưng sự thật là như vậy đấy. Thế giới của chúng ta đã từng có một thời kỳ đen tối như thế đấy. Và đối với cá nhân tôi cùng những người yêu thương, sự mất mát mà Covid gây ra đau đớn không khác gì nỗi đau mà nó đã gieo xuống bao gia đình khác. Chúng tôi đã bị cướp đi thứ quý giá nhất: mẹ Harriet.
Cái tin dữ này xảy đến với chúng tôi trong một buổi sáng đầu tuần. Tôi còn nhớ lúc ấy mình đang lên lớp tại nhà thông qua Zoom, còn Tom thì nằm trên sô-pha phòng khách và chơi game với điện thoại của anh, vì ngay cả lũ tội phạm cũng bị dịch bệnh làm cho kiệt quệ. Và tôi vẫn nhớ đến chi tiết chiếc điện thoại của Tom lúc đó đã đổ chuông tới hồi thứ ba, song anh vẫn chần chừ không chịu bắt máy mà cứ thế nhìn chằm chằm vào tên của người gọi đến.
Bởi vì tiếng chuông điện thoại lặp đi lặp lại làm chất lượng của buổi giảng dạy phần nào bị ảnh hưởng, tôi mới ném một ánh nhìn cau có về phía anh. “Tom?”
“Là bố đang gọi điện cho anh.” Anh giơ điện thoại lên cho tôi thấy.
“Thì anh mau bắt máy hay làm gì đó đi chứ?” Tôi chỉ hai tay vào chiếc laptop trên bàn làm việc. “Em đang ở giữa buổi dạy.”
Anh đứng dậy, lặng lẽ đi về phía phòng ngủ của chúng tôi ở đầu bên kia phòng khách, rồi khép cửa lại. “Vâng, chào bố. Con đây.” Tôi nghe thấy giọng nói của anh vọng lại.
Tôi quay lại với buổi giảng dạy ngay khi có thể; và điều này khiến tôi cho đến giờ vẫn còn thấy day dứt hối hận, vì xét trên khía cạnh nào đó, tôi cảm thấy mình đã quá vô tâm và tàn nhẫn với anh. Chỉ khi tiết học kết thúc vào nửa tiếng sau đó, tôi mới để ý đến Tom lúc này vẫn chưa quay trở lại phòng khách. Tôi gọi tên anh nhưng thay vì nhận được một phản hồi cụ thể, tôi lại nghe thấy tiếng khóc của anh. Phản ứng đầu tiên của tôi là tự đặt câu hỏi: vì sao anh lại khóc? Việc không thể đưa ra được một câu trả lời thỏa đáng khiến cho tôi bối rối, còn lồng ngực thì đau nhói. Cảm giác ấy giống như thể trái tim tôi vừa bước hụt chân và rơi xuống tận bụng vậy.
Tôi tức tốc rời khỏi bàn làm việc và chạy về phía phòng ngủ của hai đứa. Khi tôi đẩy cửa bước vào phòng, trong cái nóng gay gắt của ánh sáng ban ngày chiếu qua khung cửa sổ, tôi thấy anh đang nằm cuộn tròn trong góc giường như một con thú bị thương, với hai tay anh ấn chặt chiếc gối xuống mặt đến tự làm mình nghẹt thở, cùng những lời than khóc của anh đang không ngừng tràn ra, lấp đầy cả căn phòng.
“Ôi, Tom. Có chuyện gì vậy anh?” Tôi hỏi, nhưng lại sợ hãi với câu trả lời mà tôi sẽ nhận được. Đôi chân tôi rụt rè bước về phía anh, và hai dòng nước cứ thế trào ra khỏi mắt tôi thuận theo tiếng khóc của anh, dẫu cho bản thân tôi hoàn toàn chẳng có tí nhận thức: tôi đang rơi nước mắt vì điều gì?
Tom ngẩng đầu lên nhìn tôi từ chỗ chiếc giường với đôi mắt thẫm nước. Trong cơn đau khôn cùng và trạng thái tinh thần đã vỡ nát, giọng nói của anh bật ra khỏi miệng một cách đầy tuyệt vọng. “Là m-mẹ… M-mẹ đã…” Tôi gần như chết điếng, toàn thân cứng đờ lại.
Tom xử sự như một người quẫn trí kể từ lúc anh nhận được cái tin khủng khiếp về mẹ Harriet. Một nỗi đau phức tạp và đa cảm. Cảm xúc trong anh theo thời gian chuyển đổi từ sự chối bỏ này sang sự chối bỏ khác. Anh tức giận và không ngừng dằn vặt bản thân vì đã không ở bên mẹ lúc bà cần anh nhất, hay nói đúng hơn, anh đã tự quay sang căm hận chính mình. Và đây cũng là đêm đầu tiên của rất nhiều lần sau này mà tôi bắt đầu trò chuyện với Chúa; sự tuyệt vọng khi không biết phải làm cách nào để giúp Tom cảm thấy khá hơn đã đưa tôi đến với Ngài. Khi ấy, tôi đã thổ lộ với Ngài rằng mong muốn duy nhất của tôi bây giờ là không tiếc mình mà chấp nhận lao vào núi đao biển lửa, nếu ở nơi đó tôi có thể tìm thấy một chút yên bình cho tâm hồn đau khổ của anh. Song bản thân tôi cũng biết dù quyền năng của Chúa là vô vàn, ở đó vẫn có những giới hạn mà Ngài không thể tùy ý thực hiện, đặc biệt là khi điều đó có liên quan tới chữ “nếu”. Dẫu vậy, cuộc trò chuyện giữa tôi và Chúa không hoàn toàn diễn ra trong sự vô ích. Một khi trò chuyện với Ngài đủ lâu, tôi chợt nhận ra điều duy nhất mà tôi có thể làm để giúp cả hai chúng tôi tìm thấy sự bình yên lúc này là: tôi hãy ở đó vì anh. Bên cạnh đó, tôi kể bạn nghe một sự thật đáng sợ, rằng ngay cả với một phép màu diệu kỳ bậc nhất của Chúa, thì điều đó cũng không thể biến nguyện vọng ở bên mẹ Harriet vào giây phút bà ra đi của Tom thành sự thật được đâu, vì cái sự khủng khiếp của con vi-rút Covid là như thế đấy. Một khi bị nhiễm bệnh, bạn sẽ được đưa vào một căn phòng cách ly với tiêu chí nội bất xuất ngoại bất nhập, và quây kín bạn sẽ là hàng tá những thứ công cụ máy móc hỗ trợ bạn chiến đấu với tử thần trên chiếc giường bệnh. Sẽ không một ai được phép tiếp cận bạn, ngoại trừ những vị bác sĩ chịu trách nhiệm trực tiếp tới vấn đề sống còn của riêng bạn. Nhưng điều mà bạn nên biết ở đây là những điều tôi kể với bạn trên kia chỉ ở bề nổi, vì đó vẫn chưa phải là nỗi kinh hoàng nhất mà con vi-rút này đã gây ra đâu.
Tôi và Tom thu xếp công việc để quay về Georgia ngay trong buổi chiều hôm ấy, trên một chuyến bay hiếm hoi không bị hủy bỏ vì sự hoành hành của đại dịch. Dù là chuyến bay duy nhất trong ngày với cái giá mua vé vào giờ chót rẻ tới mức khó tin, nhưng đối mặt với diễn biến ngày một căng thẳng và phức tạp của dịch bệnh; bay cùng chuyến với chúng tôi ngày hôm ấy chỉ có khoảng bốn mươi người khác, đã bao gồm cả những người làm việc trong phi hành đoàn. Bầu không khí trên suốt chuyến bay diễn ra thật ảm đạm. Mọi người ngồi cách xa nhau hàng chục dãy ghế tránh hạn chế tiếp xúc, và rất lâu cô tiếp viên mới đi một vòng để đánh giá tình hình tàu bay, khiến tôi cảm thấy như tôi và Tom là những vị hành khách duy nhất của chuyến bay này vậy.
Chiếc Boeing đáp xuống sân bay Atlanta khi đã gần mười một giờ đêm theo giờ địa phương. Thời tiết xấu khiến việc hạ cánh không êm ái lắm, và cơn mưa nặng hạt càng làm cho bắt taxi trở thành một việc gì đó bất khả thi. Tom dường như tỉnh táo và bình tĩnh hơn sau giấc ngủ lả đi vì mệt từ lúc máy bay cất cánh tại LAX. Ở anh hầu như không còn những khoảnh khắc khóc thét lên rồi tự làm mình bị thương đầy bốc đồng như hồi sáng nữa, nhưng trông anh không khá hơn là bao: vẫn là đôi mắt đỏ trống rỗng và dáng vẻ thất thần đầy sa sút ấy.
Nhờ vào nỗ lực thương lượng phút chót và đồng ý trả thêm một khoản phí “chạy đường dài” cho tay tài xế láu cá, chúng tôi mới có thể rời khỏi sân bay sau gần nửa tiếng ngắm mưa với một tâm trạng ngày càng trở nên sốt ruột.
Trời dần ngớt mưa khi chúng tôi tới gần Clermont. Khoảng thời gian hơn một giờ đồng hồ xe chạy trôi qua buồn chán như cơn buồn ngủ của người tài xế vậy. Vẫn là con đường mòn và khúc quành hình chữ S khá hiểm mà tôi giữ nguyên xi ấn tượng của hơn một năm về trước, nhưng con đường ấy dường như dài thêm ở lần chúng tôi trở về này. Ngắm nhìn ánh đèn điện hiếm hoi từ ngôi nhà phía đằng xa chạy xoẹt qua những rặng cây trong màn đêm lạnh lẽo, tôi chợt tự hỏi: tại sao lại là chúng tôi? Và tại sao lại là mẹ Harriet?
Người mẹ sùng đạo của tôi thường hay bảo ban tôi: Chúa không mắc sai lầm, và Ngài luôn có kế hoạch riêng cho tất cả mọi người. Bản thân kẻ nhỏ bé như tôi thật lòng không dám nghi ngờ gì vào những sự sắp đặt thiêng liêng vĩ đại ấy của riêng Chúa, song quả thực rất khó để không cảm thấy thất vọng và đặt câu hỏi trước sự mất mát to lớn mà chúng tôi đang phải đối mặt vào lúc này, rằng kế hoạch nào cho chúng tôi khi Ngài đã mang đi người mẹ, người bạn, người đồng minh đáng tin cậy của chúng tôi một cách đột ngột như vậy? Có chăng đó là một sự trừng phạt mà Ngài dành cho riêng mẹ ư? Cá nhân tôi không hề nghĩ thế. Mẹ Harriet là một con người tuyệt vời và dù thời gian tôi biết mẹ không lâu, nhưng thông qua những lần tiếp xúc với mẹ từ những cuộc điện đàm, tôi luôn cảm nhận được một sự nhân từ đầy lòng vị tha toát ra khỏi những câu chữ của mẹ; và hơn ai hết, Chúa biết sự thật đó! Hay đây là một sự trừng phạt mà Ngài dành cho chúng tôi? Điều đó có vẻ lại càng không đúng. Suy xét tội lỗi trên mọi phương diện từ lúc được sinh ra cho đến khi đã trưởng thành, từ trong quá khứ đến hiện tại của bản thân - đã bao gồm tất cả các tầng lớp lẫn nhân tố nhạy cảm bậc nhất là tình yêu đồng giới giữa tôi và Tom (nếu có chăng đó thực sự là nguyên do dẫn tới sự trừng phạt nghiệt ngã mà tôi đang nhắc đến ở đây), thì ngay từ đầu, Chúa đã chẳng cất công sắp xếp cho chúng tôi có đặc ân được quen biết và yêu thương lẫn nhau như vậy để làm gì. Dựa theo lời mà mẹ tôi đã nói: Chúa không mắc sai lầm.
Nhưng mặt khác, càng đào sâu vào vấn đề này, tôi càng có cảm giác bản thân mình đang lạc lối. Có lẽ nào tôi đang hiểu sai ý Chúa chăng? Tôi đang cố gò ép mình vào muôn vàn những câu hỏi hóc búa về lý do tại sao mà Ngài lại mang mẹ Harriet đi, rồi sau đó lại đưa ra những lý lẽ mà cá nhân tôi cảm thấy đó là một lời giải thích đủ sức thuyết phục để phản bác lại chính những câu hỏi ấy. Có lẽ là như thế thật. Tôi đang chất vấn quyết định của Chúa với một tâm trạng xúc động đầy rối bời, và với đôi mắt đang bị những nỗi đau nghiệt ngã phủ sương mờ.
Tôi lấy tay dụi mắt, nghĩ về lời dạy bảo của người mẹ sùng đạo của tôi một lần cuối, rồi lặng lẽ nhìn theo luồng sáng đèn pha của chiếc taxi đang tiến vào khoảng sân tối om, soi sáng khoảng trống vắng lặng bên trong ngôi nhà đằng sau khung cửa kính. Bầu không khí im ắng giữa đêm làm cho tiếng bánh xe nghiến xuống con đường trải sỏi nghe rõ thêm dọc theo cả đoạn đường. Khi chiếc taxi đỗ kịch lại, tôi mở cửa bước xuống xe và ngắm nhìn một phần của ngôi nhà đang đứng dưới ánh trăng với một tâm trạng nửa vơi đầy, nửa nặng chịch.
Phải, Chúa luôn có kế hoạch riêng cho tất cả mọi người.
Bình luận
Chưa có bình luận