Tang lễ của mẹ Harriet được cử hành vào ngày hôm sau, tại ngôi nhà của gia đình Armitage. Vì sự hoành hành của dịch bệnh, đám tang của mẹ được diễn ra mà không có lấy tiếng kèn trống hay một màn gửi lời tiễn biệt của những người họ hàng và bạn bè thân thích. Vì những quy định phòng dịch ngặt nghèo, mẹ trở về với vòng tay chúng tôi trong một chiếc bình màu bạc đựng tro cốt của mẹ, vang vọng trong lòng chúng tôi một nỗi đau khôn tả, và khiến cá nhân tôi không biết phải dùng ngôn từ nào để diễn tả lại sự tàn nhẫn của hoàn cảnh này. Vì dịch bệnh, mẹ ra đi trong sự cô đơn ở một nơi lạnh lẽo xa lạ, nhưng giờ thì mẹ đã trở về bên chúng tôi, đã trở về nhà rồi.
Tôi nhìn chăm chăm vào di ảnh của mẹ Harriet đặt trên chiếc bàn tròn nằm giữa phòng khách. Nụ cười của mẹ nổi bật bên dưới vòng hoa cúc trắng - loài hoa mà mẹ yêu thích nhất, và gương mặt phúc hậu của mẹ dường như không mấy thay đổi sau ngần ấy năm theo như trí nhớ của tôi về mẹ, dù thời gian mẹ chụp bức ảnh này đã gần ba mươi năm trước. Vẫn là mái tóc màu vàng cát được mẹ thả xuống ngang vai khẽ bay lên trong gió, và đôi mắt cười lúc nào cũng tỏa ra một nguồn năng lượng tích cực. Tôi lại nghe thấy giọng nói của mẹ dội về từ trong ký ức như rất nhiều lần trước đây mà tự động rơi nước mắt, nhưng lại không có nhận thức về điều này cho đến khi tôi cảm nhận được giọt nước mắt ấy rơi xuống và chạm vào cánh tay trái của tôi. Tôi sau đó lặng lẽ đưa tay lên lau mặt và lại tự dằn vặt: phải làm sao để chúng tôi học cách chấp nhận sự thật này, rằng mẹ đã không còn ở bên chúng tôi nữa?
Tiếng trục bánh xe quay vang lên giữa bầu không khí tang thương tĩnh lặng của ngôi nhà. Alfred nâng chiếc bình đựng tro cốt của vợ trong hai bàn tay run rẩy của ông và đặt nó vào giữa vị trí hai ngọn nến đang cháy. Cơn sốc quá lớn về sự ra đi của mẹ Harriet cộng thêm căn bệnh phong thấp tái phát khiến ông tạm thời phải ngồi xe lăn. Khuôn mặt ông trông hốc hác và tiều tụy đi nhiều kể từ cái lần tôi gặp ông hơn một năm về trước. Ông bị sụt cân lộ liễu tới mức có thể nhìn thấy bằng mắt thường, cùng những đường gân xanh nổi trên cổ và dọc khắp hai cánh tay khiến ông có dáng vẻ của một người đang mang cơn bạo bệnh. Chứng kiến sự thay đổi chóng mặt này, tôi cảm thấy vừa kinh ngạc vừa hết sức nể sợ trước sức mạnh mà nỗi đau có thể gây ra cho một người.
“Nó xảy ra quá nhanh.” Giọng Alfred nghe khản đặc và đôi vai ông rung lên. “Bố xin lỗi vì đã không gọi điện cho con ngay khi bà ấy bị nhiễm bệnh, nhưng nó đã xảy ra quá nhanh.”
Tom nắm lấy vai bố anh, và bên vai trái của tôi bất chợt gợn lên cảm giác về một cơn giận ẩn giấu trong cái nắm vai ấy từ Alfred truyền qua mình. Nhưng tôi không hoàn toàn dám chắc. “Con không trách bố đâu.”
“Bố không thể hiểu được. Ông ta, tay Tổng thống khốn khiếp ấy, khẳng định nó chỉ như một trận cúm mùa. Thế rồi mọi thứ bỗng chốc đổ ập xuống.”
Tom không biết phải nói gì. Anh đã không thể giải thích vào thời điểm đó, khi báo đài đăng tin về một loại dịch bệnh nguy hiểm lây truyền đang gia tăng một cách chóng mặt trong cộng đồng, anh cũng không thể giải thích vào lúc này, rằng với nguồn sức mạnh khủng khiếp nào mà thứ dịch bệnh ấy lại có thể cướp đi người mẹ đáng kính của anh chỉ sau vỏn vẹn sáu ngày chuẩn đoán bà bị nhiễm bệnh. Anh ngước nhìn lên trần nhà với đôi mắt đỏ hoe, với khuôn hàm nghiến chặt lại, như thể hành động này sẽ giúp anh ngăn được nước mắt ngừng rơi xuống.
Tom đưa tay lên lau mắt. Sau một khoảng im lặng kéo dài, giờ thì anh đã biết mình cần phải làm gì và nói gì. Anh cần phải nhìn thẳng vào sự thật. “Con tính để đến tối mới nói với bố, nhưng đã đến lúc ta bàn về chuyện này rồi.”
Alfred ngước lên nhìn anh với một dấu hỏi lớn trên mặt. Bóng của hai ngọn nến cháy một cách yếu ớt trong đôi mắt ông. “Con muốn bàn về điều gì?”
“Jerry - tay quản lý nghĩa trang của thị trấn - đã gọi điện đến đây sáng nay. Anh ta rất lấy làm tiếc về cái chết của mẹ, nhưng anh ta muốn biết liệu bố có muốn sử dụng khu đất mà hai người đã mua tại nghĩa trang trước đó hay không? Hoặc là anh ta có thể giúp bố sang tên lại chỗ của mẹ cho người khác một cách... thuận lợi. Bởi vì…” Anh ngưng lại, thở ra một hơi dài thảm thương. “… ai mà ngờ có ngày thị trường giá đất mai táng người chết lại phát sốt cơ chứ?”
Tôi sốc ra mặt. “Hắn ta đang gợi ý cho chúng ta tạo ra lợi nhuận từ cái chết của mẹ đấy ư?”
“Ta sẽ táng vỡ mặt tên chó má ấy!” Alfred gào lên. Ông cố đứng dậy khỏi chiếc xe lăn để thể hiện sự bất bình của mình, nhưng không thể vì sức yếu. Chiếc xe lăn sau đó kêu lên một tiếng két nhỏ khi ông ngã trở lại vị trí lưng ghế. Rồi, ông đưa tay lên lau nước mắt. “Nó được bắt đầu bằng một trò đùa.” Ông khịt mũi, khuôn ngực hơi phồng lên. “Ta và Halle đã đùa với nhau hãy cùng tưởng tượng chúng ta sẽ như thế nào sau hai mươi năm nữa. Ta nói: “Thêm nếp nhăn là điều chắc chắn. Hai má của tôi lúc đó sẽ ngày càng xệ xuống trông giống như một con bull Anh điển hình, và bộ ngực của bà cũng sẽ vậy.” Bà ấy đã cười thật lớn và đáp lại: “Tôi thà chuyển địa chỉ vào sống trong cái hòm gỗ trước khi chuyện đó xảy ra còn hơn.” Rồi câu chuyện về ‘cái hòm gỗ’ dần đi xa hơn phạm vi của một lời nói đùa và mọi thứ bỗng nhiên trở nên rất thật. Thế là bà ấy đã đề nghị chúng ta nên chuẩn bị trước cho tương lai. Ta vốn chẳng thích thú gì với cái ý tưởng quái đản này của Halle chút nào, nhưng vì chiều lòng bà ấy, ngày hôm sau chúng ta đã quyết định đi tìm hiểu và xuống tiền mua hai mảnh đất cạnh nhau tại nghĩa trang thị trấn. Mỗi người một mảnh. Sáu năm trước.”
“Chúng ta không nhất thiết phải bàn về điều đó ngay bây giờ,” tôi nói. “Bố mẹ đã mua mảnh đất đó và nó là của hai người. Tên khốn Jerry ấy không thể thay ta–”
“Cứ mặc kệ cho thằng khốn ấy muốn làm gì thì làm với mảnh đất chết tiệt đó đi!” Giọng nói của ông lạnh lùng cắt ngang họng tôi, tỏ rõ ý chí chỉ mong tôi ngậm miệng lại. Thế là tôi cúi gằm mặt xuống và bước lùi ra sau một bước dài.
Tom trao nhanh cho tôi một ánh nhìn cảm thông. Rồi, “Vậy ý bố là?” anh hỏi.
Ông trao cho anh một ánh nhìn ngắn, sau đó vươn người về phía chiếc bàn tròn và cầm lên di ảnh của mẹ Harriet. “Ta muốn giữ bà ấy ở lại đây.”
Tom gật đầu. “Con cũng vậy, và con nghĩ mẹ sẽ rất hài lòng với điều đó. Bà ấy yêu ngôi nhà và khu vườn này.”
“Vậy con tính sẽ chôn cất tro cốt của bà ấy ở trong vườn ư?”
Anh ngưng lại để suy nghĩ về một điều gì đó, rồi lắc đầu. “Con chưa nghĩ về điều đó. Hơn nữa vấn đề là, đó sẽ là một hành động phi pháp nếu chúng ta dựng mộ của mẹ trong vườn mà chưa được sự cho phép của chính quyền địa phương.”
Alfred ném một tia nhìn bực bội ra ngoài cửa sổ. Ngoài trời, cơn mưa ngày một trở nên nặng hạt. “Đất nước của sự tự do cái con khỉ! Đây là mảnh đất của ta. Lý do gì mà ta phải xin phép lũ mặt mốc ấy để có thể làm những gì mà ta muốn làm với tài sản của mình chứ?”
“Con biết nó đôi khi khiến ta thất vọng, nhưng luật vẫn là luật, bố à.”
Giữa lúc ấy, tôi bỗng nảy lên một ý tưởng trong đầu. “Nếu như chúng ta không chôn mà rải tro cốt của mẹ quanh gốc cây hồng thì sao?” Không một ai lên tiếng, nhưng mọi sự chú ý trong nhà lúc này đều đổ dồn về phía tôi, và ánh mắt mở lớn kiểu tiếp nhận ý kiến tuyệt đến không ngờ của hai bố con anh khiến tôi nhất thời rơi vào trạng thái bối rối. “Em biết, em biết. Điều đó thật ngu xuẩn.”
“Nick, không ai bảo điều em đang nói là ngu xuẩn cả. Hãy tiếp tục đi em,” Tom khích lệ tôi.
Tôi lắc đầu thật mạnh như thể cố đánh thức bản thân dậy, thả lỏng người. “Vâng,” tôi đáp lại anh với một ánh mắt biết ơn. “Khu vườn này là đại diện của mẹ và cây hồng là trái tim của cả khu vườn. Nếu chúng ta rải tro cốt của mẹ quanh gốc cây hồng, thì khi ấy mẹ và cây hồng sẽ là một; nghĩa là mẹ sẽ luôn có mặt tại đây, cùng với chúng ta, và bà vẫn đang sống từng ngày.” Giọng tôi nhỏ dần đi theo thời gian vì đợi mãi mà vẫn chẳng thấy ai nói hay có phản ứng gì. “Hai người hiểu ý em mà. Đúng không?”
Tom chạm nhẹ vào tay tôi. “Mọi người hiểu ý em.”
Tôi rón rén đưa mắt xuống nhìn Alfred để thăm dò ý kiến của ông, và bất ngờ thay, ông cũng đang trao cho tôi ánh mắt - một ánh mắt mà tôi cảm nhận được trong đó có lẫn cả sự tôn trọng và tử tế - lần đầu tiên, kể từ cái Lễ Tạ ơn thảm họa của hơn một năm về trước. “Bà ấy sẽ yêu điều đó,” ông nói.
Mặt trời xuống thấp nhuốm đỏ bầu trời khiến những đám mây trông như thể đang bốc cháy. Cơn mưa hai tiếng vào lúc bốn giờ dường như không thể cứu vãn nổi cái nóng oi bức của buổi chiều. Hơi nước bốc lên khỏi mặt đất thẩm thấu qua các lớp vải quần áo gây ra một cảm giác dinh dính tới phát bực. Và tiếng ve sầu không ngừng kêu inh ỏi khắp mọi nơi chỉ càng làm cho mọi thứ thêm muôn phần tệ hại. Sáu giờ tối, ba người chúng tôi dừng chân trước gốc cây hồng trong khu vườn sau nhà, cùng với bình đựng tro cốt của mẹ Harriet như đã bàn trước đó.
“Vậy là đây.” Alfred nói. Ông ôm chặt chiếc bình đựng tro cốt của vợ vào lòng như thể đang suy nghĩ lại về quyết định này.
Hiểu được khó khăn của Alfred, Tom quỳ một bên gối ngồi xuống bên cạnh chiếc xe lăn. “Nếu như bố chưa sẵn sàng làm điều này, chúng ta vẫn có thể giữ tro cốt của mẹ và đặt nó trong nhà.”
“Không sao. Bố nghĩ bà ấy sẽ thích cách này hơn,” ông nói, những ngón tay dần thả lỏng quanh thân chiếc bình bạc. “Vì làm thế này, cuộc sống vẫn sẽ được sinh sôi sau cái chết của bà ấy. Như vậy mới đúng là mẹ con, một người luôn thầm lặng hy sinh vì mọi người.”
“Vâng.” Tom chống gối đứng dậy, sau đó đặt một nụ hôn lên trán ông. “Chúng ta không cần phải vội vã. Bọn con sẽ đợi cho đến khi bố sẵn sàng.”
Thành thật mà nói, khoảng thời gian chúng tôi đợi Alfred đủ sẵn sàng dù ngắn hay dài đều không đáng kể, vì chuyện này thực sự khó khăn ngay cả với chính tôi. Phải, làm thế này nghĩa là mẹ Harriet sẽ luôn ở bên cạnh chúng tôi. Nhưng có nói gì đi nữa, thì một phần nào đó ý nghĩa của hành động này vẫn giống như là chúng tôi đang gửi lời “tạm biệt cuối cùng” đến mẹ vậy.
Vào một thời điểm nhất định, khi những tia lửa nóng rực của mặt trời lui dần về phía sau khu rừng, Alfred chầm chậm đưa bàn tay phải gầy gò của ông đặt lên trên tấm nắp kim loại của chiếc bình bạc và vặn tách nó ra khỏi thân bình. Sau một tiếng kịch rất nhẹ, tôi để ý thấy những phân tử bụi màu xám nhỏ li ti từ trong chiếc bình khẽ bay lên và trở nên trong suốt dưới tia nắng muộn, trước khi chúng biến mất hẳn vào giữa thinh không.
Alfred là người đầu tiên trong số chúng tôi nói lời tạm biệt với mẹ Harriet. Ông đưa tay vào trong chiếc bình và mang ra một nắm tro của mẹ, rồi sau đó nhẹ nhàng rải tro xuống nền đất ẩm một đường vòng cung men theo hình dáng xù xì của gốc cây hồng. Cũng là với bàn tay ấy, ông vuốt ve thân cây và ngước nhìn lên phần ngọn xanh tươi tốt của nó với đôi mắt rưng rưng. “Giờ thì bà đã ở đây rồi. Xin hãy che chở cho chúng tôi bằng bóng râm khoan dung của bà và đợi đến ngày cho đôi vợ chồng già chúng ta được đoàn tụ nhé.”
Phút chốc sau, từ vị trí đùi của mình, Alfred nâng chiếc bình màu bạc lên và đưa nó về phía Tom. Đã đến lúc để anh nói lời tạm biệt với mẹ Harriet. Tom nhìn bố rồi gật nhẹ đầu. Anh hơi cúi lưng xuống và đưa tay vào trong chiếc bình bạc nằm giữa hai lòng bàn tay bố. Tôi chăm chú quan sát Tom và nhận ra ngôn ngữ cơ thể anh lúc này đang tiết lộ nhiều điều, và một trong số chúng được thể hiện rõ khi anh đi vòng sang phía bên kia cây hồng và rải tro của mẹ Harriet quanh gốc cây, để hoàn thành trọn vẹn nốt một nửa đường vòng cung còn dang dở mà bố Alfred bỏ ngỏ trước đó. “Con xin lỗi vì đã không nói yêu mẹ mỗi ngày.” Anh đau đớn gục đầu vào thân cây, nước mắt rơi xuống. “Nhưng con yêu mẹ rất nhiều. Rất rất nhiều.”
Tôi thực chất không dám nghĩ về điều này trước khi nó xảy ra, tất nhiên là vì ấn tượng đầu về mối quan hệ giữa tôi và Tom qua góc nhìn thiếu thiện cảm của Alfred luôn khiến tôi phải giữ khoảng cách với bố, và tự nhắc nhở mình đừng quá hi vọng sẽ nhận được một cử chỉ tử tế cụ thể nào từ ông. Nhưng ngay khi Tom bước lùi lại từ chỗ gốc cây hồng, ông đã không nghĩ ngợi nhiều mà đưa chiếc bình đựng tro cốt của mẹ Harriet đến bên cạnh tôi, và nói, “Bà ấy sẽ ghét ta nếu ta không cho phép cậu làm điều này.”
Tôi biết điều này nghe có vẻ lạ lùng, nhưng vào giây phút những ngón tay của tôi tiếp xúc với tro cốt của mẹ Harriet, tôi dường như có thể nghe thấy được hết tất cả những nỗi tâm tư mà mẹ muốn gửi gắm đến tôi trước khi mẹ bị tước mất cơ hội. Tôi nghe thấy mẹ bảo với tôi rằng giờ thì mẹ đã an toàn trong vòng tay Chúa, nhưng mẹ rất lo lắng cho sức khỏe của bố Alfred và cái chân đau của ông. Cái chân đau quái quỷ ấy ngày một trở nên tồi tệ và cộng thêm với sự ra đi đột ngột của mẹ; mẹ sợ rằng ông ấy sẽ không thể trụ thêm được bao lâu nữa. Mẹ cũng nhắc về Tom nhưng không quá lo lắng cho anh, bởi mẹ biết anh là một con người mạnh mẽ và bên cạnh anh còn có những sự hỗ trợ hết sức tuyệt vời về mặt cảm xúc tới từ những người thân yêu cũng hết sức tuyệt vời, dễ dàng giúp anh an toàn vượt qua niềm mặc cảm của nỗi đau này. Về lời nhắn nhủ cuối cùng, mẹ xin gửi gắm trực tiếp đến tôi. Mẹ bảo rằng mẹ biết đây là một đòi hỏi quá mức, nhưng liệu tôi có thể giúp đỡ mẹ thực hiện nguyện vọng cuối cùng này không? Tôi chăm chú lắng nghe lời tâm tư của mẹ và mang nắm tro của mẹ trong tay tôi rải xuống nền đất ẩm. Khi tôi ngước nhìn lên phần ngọn xanh tươi tốt của cây hồng và gật đầu đồng ý với lời đề nghị của mẹ, tôi chợt cảm nhận được một luồng gió mát lạ thường bao quanh cơ thể mình. Giống như thể đó là một cái ôm cảm tạ mà mẹ dành cho tôi vậy.
Đến tối, tôi ở trong bếp nấu chút cháo yến mạch cho Alfred vì bố hầu như chưa có gì bỏ bụng gần ngày trời, và ông phàn nàn cơn sốt nhẹ khiến miệng ông lúc nào cũng đắng ngắt. Vậy nên cháo yến mạch là sự lựa chọn khả dĩ nhất. Về phần tôi và Tom, chúng tôi quyết định làm nóng pizza đông lạnh vì quá lười để nấu gì đó sau một ngày dài đằng đẵng, và cũng chẳng thực sự có tâm trạng nào để ăn uống. Nhưng nếu muốn sống thêm một ngày nữa, thì bạn phải ăn. Thế thôi.
Tôi rót một cốc nước đầy và mang nó đến chỗ Tom lúc này đang ngồi tại bàn bếp. “Của anh đây.”
Tom giật nảy mình khi tôi đặt cốc nước xuống trước mặt anh. Anh ngẩng đầu lên, cố gắng bắt kịp tôi với hai con mắt ngơ ngác không chớp dù chỉ một giây. “Hả?”
“Anh cần phải uống chút gì đó nếu không muốn bị lả đi vì mất nước.”
Những ngón tay chán nản của anh hờ hững chạm vào cái cốc, song không thực sự có ý định sẽ uống nó. “Cảm ơn em.”
Tôi kéo ghế ra và ngồi xuống cạnh anh. “Anh đang có tâm sự gì à?”
“Một vài.”
“Muốn chia sẻ chúng không?”
Anh lắc đầu. “Chúng sẽ chỉ khiến em thêm phần lo nghĩ thôi.”
“Vậy thì em càng muốn được biết.”
Một quãng lặng dài. Đọc biểu cảm trên khuôn mặt Tom, tôi đoán anh đang cố lựa chọn câu từ khả dĩ nhất trong giữa mớ hỗn độn đang vây lấy tâm trí anh để bày tỏ với tôi, nhưng một thứ gì đó xuất hiện vào phút cuối đã ngăn cản anh lại. Anh lặng lẽ chuyển hướng nhìn ra ngoài khu vườn đang nằm im lìm trong màn đêm dày đặc. Mồ hôi ứa ra từ cổ anh không ngừng đổ xuống và chẳng mấy chốc đã làm ướt hết hai vai áo. Ở phía bên kia gian bếp, những luồng khí oi ả đang không ngừng phả vào trong nhà thông qua ô cửa sổ mở.
Kể ra thì thực chất tôi đã biết trong lòng Tom đang mang tâm sự gì: anh đang lo lắng cho cuộc sống sau này của bố Alfred. Bố vốn không giỏi khoản tự chăm sóc bản thân lắm, và giờ thì cuộc sống đơn độc hậu cái chết của mẹ Harriet, cộng thêm tình trạng bệnh tật kéo dài càng khiến nỗi lo ấy của anh có thêm cơ sở để hình thành. Nhưng dở hơi thế nào, vẻ mặt ủ rũ của Tom lúc này lại khiến tôi nảy ra ý tưởng pha trò gây cười mới tai hại chứ. “Chúng hẳn phải hệ trọng lắm mới khiến ông chồng tăng động của em mặt dài ra như ngựa thế này.”
“Chẳng buồn cười tí nào.” Câu nói bật ra từ đằng khóe môi anh một cách nghiêm túc đến chán trường.
Tôi gãi cổ rồi gãi tai, đợi cho hành động đùa giỡn ngớ ngẩn mới đây của mình lắng xuống. “Thôi nào, đừng xị mặt ra nữa. Em đồng ý với anh, được chứ?”
Anh quay lại nhìn tôi đầy mơ hồ. “Em bảo đồng ý với cái gì cơ?”
“Chúng ta nên chuyển về đây sống để tiện đường chăm sóc cho bố Alfred,” tôi trả lời.
Tôi sẽ nói cảm giác đầu tiên xảy đến với Tom là nghi hoặc. Anh tròn mắt nhìn tôi trong gần một phút đầy sau lời gợi ý đó của tôi. Rồi những cơ mặt của anh dần giãn ra và không giấu nổi vẻ bất ngờ, lẫn cả một chút mừng rỡ khi nghe tôi nói thế. “Em nói thật chứ?” Giọng anh đầy nghẹn ngào.
Tôi gật đầu. “Em nghiêm túc đấy.”
“Thế nhưng còn cuộc sống và công việc của chúng ta ở thành phố thì sao? Còn bạn bè. Còn Jane? Và tất cả những kỷ niệm tốt đẹp nhất của chúng ta đều ở đó nữa. Cuộc sống của chúng ta đã bắt đầu cùng nhau tại đó.”
Tôi nhún vai. Đúng là những điều anh vừa chỉ ra phần nào khiến tôi phải đắn đo thật, nhưng dù sao thì tôi cũng đã hứa với mẹ Harriet điều này rồi. “Xây dựng những kỷ niệm mới đã bao giờ là ý tưởng tồi đâu.”
“Nhưng thật không công bằng với em khi anh đòi hỏi một sự hy sinh quá lớn từ em như vậy.”
“Anh không đòi hỏi gì cả, và đây không phải là vấn đề công bằng hay không công bằng, mà đó là sự lựa chọn của em.” Rồi tôi huơ ngón tay đeo nhẫn đính hôn lên trước mặt anh. “Về cơ bản, chúng ta bây giờ đã là những ông chồng của nhau rồi, và đó chẳng phải là ý nghĩa của một cuộc hôn nhân đấy sao? Làm cho cuộc sống của đối tác ta dễ thở hơn.”
Anh nghẹn lời, không biết phải nói gì.
“Nghe em này, Tom. Em cảm kích anh đã lo lắng cho em, nhưng đừng nghĩ lý do của quyết định này vì đây là một việc mà em phải làm, chỉ vì bây giờ chúng ta đã kết hôn. Được chứ? Chính xác thì đây là một việc mà em muốn làm.”
Tom nhìn tôi thật lâu với đôi mắt xanh lá, suy ngẫm sự việc trong im lặng. Trông anh khổ tâm thực sự, và tôi biết điều này có nghĩa là nội tâm trong anh đang diễn ra một cuộc chiến quyết liệt. Trong cuộc chiến nội tâm ấy, có lẽ là anh đang thật sự sợ tôi sẽ phải chịu thiệt thòi khi chuyển về đây sống với người bố cộc cằn và kỳ thị đồng tính của anh, hoặc là anh đang nghĩ đến những bí mật còn dang dở chưa được giải đáp hết trong công việc yêu thích của mình, hoặc đơn giản là tiếc nuối cho cuộc sống thành thị mà anh biết chúng tôi sẽ không thể có được khi chuyển về vùng thôn quê này… Kể ra thì còn nhiều lắm. Mãi đến lúc sau, anh mới chịu gật đầu, với hai má đỏ ửng lên và hai hàng nước mắt chỉ chờ chực rơi xuống. “Anh hiểu rồi. Cảm ơn em, Nick. Em vừa giúp cho cuộc sống của anh dễ thở hơn rất nhiều. Thật đấy. Anh cảm thấy như vừa trút bỏ được cả quả núi nặng trĩu trên vai xuống vậy.”
“Nào nào, không sướt mướt nữa nào. Chúng ta đã khóc đủ cho ngày hôm này rồi. Hãy nghĩ đến một tương lai tốt đẹp sau khi chúng ta chuyển về đây.”
Anh khịt mũi nhẹ, vươn tay vươn chân và trông tươi tắn hơn một chút. “Anh có thể xin chuyển công tác về đồn cảnh sát địa phương. Có lẽ đó không phải là sự lựa chọn tốt nhất và vụ án lớn nhất mà anh khả năng cao nhận được là đi tìm đàn mèo mất tích của một bà cô già “ống chề” nào đó. Nhưng thà có còn hơn không, nhỉ?”
Tôi vỗ nhẹ vào tay anh, phụ họa thêm. “Và em vẫn có thể dạy học trực tuyến ít nhất là một thời gian nữa, nên chúng ta sẽ không gặp phải vấn đề gì đáng lo ngại nào về khoản tài chính thời gian đầu chuyển về đây. Số thời gian rảnh còn lại chắc chắn đủ để em kiếm được một công việc phù hợp với mình.”
“Nó thực tế có khi còn tốt hơn ấy chứ.” Anh bắt đầu trở nên hào hứng. “Nghĩ thử mà xem, mọi chi phí sinh hoạt ở đây đều rẻ hơn so với mức sống của chúng ta tại thành phố. Đấy là anh còn chưa kể đến chuyện chúng ta sẽ tiết kiệm được một khoản kha khá tiền thuê nhà và từ những buổi tụ tập nữa đấy nhé. Chúng ta hoàn toàn có thể trở nên giàu có sau vài năm đấy.”
“Chưa gì đã tính xa thế.” Tôi cười nhe nhởn, và anh cũng cười. Rồi tiếng ting của chiếc lò nướng vang lên. Đã đến giờ ăn Pizza rồi!
Bình luận
Chưa có bình luận