Bây giờ là cuối tháng Chín; mùa thu đã ở đây, nhưng cái nóng khắc nghiệt dường như khiến mọi vật quay quanh nó chưa thể nhận ra được sự chuyển mình lớn lao ấy của mẹ thiên nhiên. Cây cối vẫn đang cúi sạp mình, phó thác cho những trận gió khô hạn quăng quật chúng qua lại trong bộ dạng rệu rã của những con bợm thiếu hơi rượu, như thể cầu xin trời hãy rủ lòng thương mà ban xuống một trận mưa giải nhiệt; điều đó cũng tương tự với các loài động vật nhỏ bé khác ví dụ như lũ chim sẻ, thà tận dụng hơi thở kiệt quệ của những tán cây đang chết dần chết mòn kia để né tránh cái nắng mà bất chấp cái bụng đói cồn cào, còn hơn là lao mình ra giữa trời kiếm ăn và rơi vào vòng tay của Tử thần.
Không khí bị đốt nóng khiến mặt đường trải nhựa nhìn từ xa trông như thể bị ướt. Bố Alfred chủ động giảm tốc độ khi chúng tôi băng qua một đoạn đường xấu. Mặc kệ con đường sóc làm mình nảy tưng tưng trên ghế, tôi yên lặng chăm chăm đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, cố lý giải hiện tượng không một gợn mây đầy thất thường của bầu trời mùa thu. Khi chiếc xe dừng lại trước một cột đèn đỏ cuối phía nam thị trấn, sự im lặng giữa tôi và bố, cộng hưởng với cái nóng hừng hực phả trực tiếp xuống người chúng tôi từ chỗ ánh nắng đi qua tấm kính chắn gió, và cái điều hòa nhiệt độ hoạt động không mấy hiệu quả của chiếc bán tải đã thừa tuổi để làm một học sinh trung học, tất cả gộp lại, dường như khiến sáu mươi giây đếm ngược là một điều gì đó thật khủng khiếp và khó chấp nhận.
Lúc tín hiệu đèn giao thông chạy lùi về giây thứ năm mươi, chẳng nói chẳng rằng, bố Alfred đột nhiên giáng tay xuống vô lăng một vẻ bứt rứt khó tả, làm còi xe kêu lên một tiếng Bíp! rất lớn, và làm tôi giật bắn. “Tại sao nó có thể nghĩ như vậy cơ chứ?” Bố càm ràm.
Tôi khẽ liếc mắt sang nhìn bố, sợ toát mồ hôi hột, nhưng không dám đả động gì.
“Cậu không nghiêm túc cho rằng ta có ý định làm… điều đó với cậu đấy chứ?”
Sát hại tôi, ý ông là thế. Và tôi cá là bạn cũng đoán ra nó rồi, nhưng hãy cứ để tôi nói thẳng ra cho rõ. Tôi lặng lẽ thấm mồ hôi đang chảy dọc tóc mai với tay áo, rồi quay sang ông. “Sẽ là một lời nói dối nếu con trả lời rằng “Không”, nhỉ? Nhưng thành thật mà nói, con chỉ nghĩ về nó sau cuộc tranh luận ban nãy giữa bố và Tom thôi.”
“Công bằng thôi,” bố nói, những ngón tay gõ nhịp trên vô lăng. “Thật khó cho cậu để không nghĩ về nó một khi nó đã ở trong đầu cậu rồi.”
Vẻ đồng tình của bố cho tôi cảm giác nhẹ nhõm như thể vừa được giải phóng khỏi một cái gì đó. “Bố đang giận Tom đấy ạ?”
“Trong vòng ba tháng qua ư? Có, rất nhiều nữa là đằng khác,” bố trả lời với ánh mắt đăm chiêu nhìn ra con đường vàng rực nắng hướng trước mặt, giọng trầm xuống. “Nhưng chuyện vừa rồi thì không. Phản ứng của thằng nhóc đang khiến ta phải suy nghĩ lại về mình.”
Cách mà Alfred gọi Tom là “thằng nhóc” làm tôi thoáng nhớ đến mẹ tôi. Chẳng thể cãi được, phận làm con chúng tôi dù có bao nhiêu tuổi đi nữa thì vẫn sẽ mãi là những đứa trẻ trong mắt của phụ huynh mình. Bạn nói có phải không? “Con có nên hỏi không ạ?” Tôi hỏi ông.
“Chúng ta đã từng rất thân thiết hồi Tom còn nhỏ, thằng nhóc có kể cho cậu điều đó chứ?”
“Anh ấy có,” tôi xác nhận với bố. “Anh ấy bảo rằng hai người là những cần thủ tệ nhất Clermont.”
Ông cười nhẹ từ đằng khóe miệng. “Ta thường đưa Tom đi câu vào mỗi cuối tuần như việc ta và cậu đang làm bây giờ, và đúng thế, chúng ta là những cần thủ tệ nhất Clermont.” Nói đến đây, ông như thể cố duy trì nét hào hứng trên khóe môi, nhưng giọng ông nghẹn lại. “Hồi đó vui thật, thằng nhóc thậm chí còn gọi ta là “bồ tèo”[1] thay vì cái tên “bố” nữa. Nhưng từ bao giờ mà người bạn này lại biến thành một con quái vật trong mắt thằng nhóc vậy?”
Tôi biết mình không nên cảm thấy tội cho bố, nhưng từng lời ông nói ra vẫn khiến tôi lặng đi. “Con không nghĩ Tom xem bố là quái vật đâu ạ.”
Bố chẳng đáp lại câu gì. Bầu không khí trong cabin xe cứ thế theo đà chùng xuống rõ rệt. May mắn thay, tiếng còi xe thúc giục của chiếc xe bốn chỗ chạy phía sau đã giải cứu cả hai chúng tôi thoát khỏi tình cảnh ngột ngạt ấy. Tín hiệu đèn giao thông vừa kịp thời chuyển sang màu xanh. Và thế là chuyến hành trình tiếp tục.
“Nếu ta cứ trò chuyện như thể giữa hai ta chưa từng có gì xảy ra thế này quả thật không công bằng với cậu lắm nhỉ?” Ông cất tiếng, mặt nghiêm lại.
Có phải bố đang có ý xin lỗi tôi đấy không? Câu hỏi ấy tự động bật lên trong đầu tôi và quả thật, tôi đã ngờ rằng nếu ông có thực lòng muốn xin lỗi tôi. Nhưng tôi đâu dại gì thể hiện nó ra mặt. “Con đang lắng nghe đây.”
Ông đưa tay trái lên gãi gãi những mảng râu bạc hai bên quai hàm, rồi cũng với bàn tay ấy luồn vào đám râu rậm ở cổ. “Những gì ta đã làm với cậu là sai trái, và ta thực lòng xin lỗi cậu về điều đó.”
Trong giây lát ngắn ngủi, tôi không dám tin điều đó là sự thật. Nhưng cái nóng thiêu đốt của những tia nắng chói chang như đang nướng chín da thịt, đã giúp tôi xác nhận điều đó là sự thật. Bố đang thật sự hạ mình trước tôi. “Lời xin lỗi của bố được chấp nhận,” tôi nói, với một cái đầu cúi thấp, bày tỏ sự khiếm tốn và chân thành của mình. “Và con cũng xin nhận một phần trách nhiệm về mình vì ngày ấy đã không nói với bố một lời, trước khi con quyết định sửa sang lại khu vườn của mẹ. Đó là một hành vi thiếu tôn trọng.”
Bố gật đầu, tỏ ra hiểu. “Ta đánh giá cao sự chân thành của cậu.”
“Cảm ơn bố,” tôi đáp.
Trước chuyến đi, vì chẳng biết nơi nào với nơi nào xung quanh đây, tôi cứ đinh ninh cho rằng địa điểm câu cá mà bố Alfred nhắc đến là một nơi nào đó cách xa thị trấn và phải mất ít nhất một giờ đồng hồ di chuyển. Nhưng hóa ra, thời gian để chúng tôi đến đó còn nhanh hơn cả một giấc ngủ ngắn mà tôi thường từng tận dụng quãng giờ nghỉ trưa tại văn phòng.
Đó mà một địa điểm mà nó dường như chỉ được rỉ tai nhau giữa một nhóm người có cùng sở thích câu cá. Bố Alfred bắt đầu truyền đạt lại kinh nghiệm cho tôi trong lúc cả hai tay bố cẩn trọng đặt trên vô lăng, giữ cho xe chạy ổn định trên những mô đất gập ghềnh. Rằng, để đến được nơi đó, tôi cần phải có đủ tự tin đạp ga lao xe qua một hàng bụi rậm ám bụi ven đường mà không có tí manh mối nào về việc con đường ấy sẽ dẫn tôi đến đâu (sau này tôi biết sự thật là, bố và những người bạn cùng hội câu cá của ông đã đánh giấu con đường bí mật này bằng một tấm vải đỏ được buộc trên cành caocủa một cây phong gần lối đi). Sau đó tôi sẽ tiếp tục lái xe đi cho đến khi bắt gặp những tán cây rợp lá cao vời vợi che phủ gần hết bầu trời và làm tôi choáng ngợp trước sức mát một của bầu không khí lạ thường, khiến tôi có cảm giác như thể vừa bước vào một thế giới hoàn toàn trái ngược với thế giới của cái nắng đổ lửa phía sau hàng bụi rậm ám bụi ven đường đằng kia. Đó sẽ là lúc mà tôi nhận ra, tôi đã hoàn toàn thuộc về khu rừng.
Giảm tối đa tốc độ khi đi vòng qua một đám dương xỉ khổng lồ, bố tiếp tục kể nếu tôi may mắn đến được chỗ này mà không rẽ sai đường, va chạm với một ngõ cụt, hay lái xe lao xuống một hố sụt không ngờ nào; bắt đầu kể từ đoạn này, tôi buộc phải đặt trọn niềm tin vào khu rừng. “Vạn vật trên đời đều tồn tại linh hồn và mỗi linh hồn đều có cách phán xét của riêng nó,” bố nói, “và khu rừng này không nằm ngoài quy luật ấy. Tuy đây không phải là một khu rừng lớn, nhưng một khu rừng luôn có cả tỷ cách để khiến cậu bị mắc kẹt, vĩnh viễn chẳng thể tìm thấy lối ra. Hãy tỏ ra khiêm nhường trước khu rừng, tin tưởng vào sự chỉ dẫn của nó; và một khi khu rừng cảm nhận được đủ sự chân thành của cậu, thì cậu không có gì phải lo lắng khi đi qua đây một mình cả.”
Phần nhiều cái nhìn hạn hẹp của tôi ngày ấy đã cho rằng bố đang tán phét, buông lời ẩn ý về những câu chuyện ma quái và linh hồn quỷ dữ cư ngụ trong khu rừng chuyên đi bắt vía, tận dụng một loại truyền thuyết dân gian vốn chẳng còn mới lạ gì trong đời sống văn hóa của người châu Á, để dọa nạt tôi (cá nhân tôi cho là bố đã học thuộc lòng đường đi và đánh dấu vị trí địa lý thông qua đặc điểm nhận biết riêng biệt của từng góc quành, của từng phiến đá phủ đầy rong rêu ven đường, của những bụi cọ lùn, hoặc hình dáng đặc biệt của gốc sồi đôi chúng tôi bắt gặp giữa đường mà bố đã lưu giữ trong trí nhớ và biến chúng thành các cột mốc ghi nhớ khác nhau, cho phép bố có thể tiến sâu vào khu rừng và quay trở ra mà không gặp phải chút trở ngại nào), nhưng vào cái ngày kỷ niệm ba năm bố mất và con bé Angie nhà tôi khi ấy đã là một thiếu nữ mười lăm tuổi, tôi quyết định đưa con bé đến đây câu cá để tưởng niệm về người ông tuyệt vời của con bé - cũng là lần đầu tiên sau nhiều năm tôi quay trở lại đây. Tôi đã không thể tin được rằng - khu rừng ngày nào mà tôi chỉ còn mang máng nhớ trong ký ức giờ đã khoác hẳn lên một bộ mặt mới sau gần chục năm trời đằng đẵng, và với sức chắn nắng của những tán sồi lúc bấy giờ thậm chí còn trở nên um tùm gấp đôi trước, khiến toàn bộ nơi đây trông như thể đã từ lâu bị rơi vào quên lãng - khi tôi lấy hết sức can đảm lái xe tiến sâu vào khu rừng, cây cối cứ như thể tự động dạt sang hai phía và để lộ rõ ra lối đi mòn được khắc xuống bởi những vệt bánh xe mà bố Alfred và những người bạn của ông từng cả nghìn lần đi qua đây. Chỉ lúc ấy, tôi mới chợt nhận ra, chính tôi mới là đứa hay tán phét, còn bố đã nói đúng. Tôi đã đặt trọn niềm tin vào khu rừng này và khu rừng chẳng hề ngần ngại gì mà đáp lại sự chân thành ấy của tôi. “Đừng có ngó sang bên này rồi lại quay qua bên kia, bởi điều đó sẽ khiến cậu bị ngợp và dễ hoảng; trong đây chỗ quái nào trông cũng như chỗ quái nào cả thôi,” bố cẩn thận dặn dò. “Hãy cứ thong thả đi theo sự chỉ dẫn của khu rừng, tin tưởng vào nó. Và đặc biệt, đừng bao giờ để lũ chim trên đầu cậu phân tán sự tập trung.”
Tôi dường như bị ám ảnh với cách bố Alfred lèo lái chiếc bán tải chạy đè lên những vệt bánh xe của người đi câu trước đó để lại một cách hoàn hảo, như thể việc nối tiếp ấy được diễn ra giữa những đoàn tàu chạy trên đường ray, rồi nhanh chóng hiểu ra vấn đề nằm ở chỗ chỉ những người đã từng đặt chân đến đây nhiều lần mới có kinh nghiệm đến thế, để biết rõ anh ta có thể đậu xe ở khu vực nào trên cái bãi đất mềm này mà không bị lún xuống, hay không cần phải trèo lên xe lần nữa với một thái độ bực dọc khi anh ta buộc phải di chuyển nó sang một địa điểm khác lúc triều dâng.
“Có vẻ như Correll đã ở đây hôm qua.”
Tôi nghe thấy tiếng bố nhắc đến tên một người nào đó, ngẩng cổ lên tìm kiếm ông từ chỗ cái quỳ gối của tôi đang buộc lại dây giày bị tuột, nhưng chẳng thấy gì nhiều hơn ngoài những vệt rỉ sét len dọc trên thân thùng xe chiếc bán tải cũ kỹ. “Bố bảo ai cơ ạ?”
“Correll,” bố nhắc lại cái tên ấy với vẻ không hài lòng. Một giây sau, tôi nghe thấy tiếng chân bố dẫm lên một vật thể kim loại nào đó vang lên, trước khi tôi thấy mấy cái vỏ lon bia Bud Light bẹp dúm lần lượt bị bố ném vào thùng chiếc bán tải. “Hắn ta chuyên trị vứt vỏ lon bia bừa bãi sau khi đã chè chén chán chê. Thứ quỷ tha ma bắt! Ngay đến mấy con chó còn có ý thức hơn thằng cha khốn khiếp ấy nữa.”
Tôi thầm ước nếu bố là chị Jane thì hay biết mấy, tôi và chị sẽ dành cả ngày để nói xấu sau lưng về cái gã Correll ý thức còn “thua cả chó” kia ngay cả khi tôi chẳng biết tí gì về gã, hay chuyện gã ta là kiểu người như thế nào (quá rõ ràng là tôi đang nhớ chị!), nhưng vì Jane là Jane còn bố là bố, tôi chỉ biết âm thầm đồng tình rồi bước đến cạnh ông ở phía đuôi chiếc bán tải. “Hãy để con trèo lên đó lấy đồ,” tôi nói, rướn tay mở hai bên thanh chốt bửng xe.
Đặt cái bửng xe xuống, tôi chống tay và gác chân phải lên thùng xe trước, trong khi chân trái hơi co lại lấy đà, bật nhảy, và nhao người lên thùng xe. Trên đoạn bước về chỗ tấm vải bạt và mấy cái ghế gập, tôi có cảm giác toàn bộ thân sau của chiếc xe hơi nhún xuống, khiến tôi phải tự hỏi lần cuối mình kiểm tra cân nặng là bao giờ.
Lớp sơn bạc bóng bảy trên thân hai chiếc cần câu ánh lên trong nắng khi tôi cầm chúng lên. Điều mà tôi không ngờ tới là chúng hóa ra lại nhẹ hơn rất nhiều so với những gì tôi tưởng tượng dựa trên vẻ bề ngoài của chúng. Sau đó tôi lần lượt đưa cần câu, kế đến là hai cái ghế gập, rồi hai đôi ủng cho bố. Khi tôi cúi xuống chỗ cái thùng đựng mồi, bố bảo tôi: “Cái thùng đó khá là nặng đấy, cậu chắc là không cần ta giúp chứ?”
Thể hiện bản lĩnh đàn ông vốn là một thứ chưa bao giờ tồn tại trong từ điển sống của tôi, ấy thế nhưng nghe bố nói vậy, sao tôi bỗng thấy nóng mặt quá thể. “Con lo được,” tôi rõng rạc tuyên bố.
“Tốt thôi,” bố bảo.
Tôi quyết định lờ đi cái ngữ điệu “báo trước rồi đấy nhé” của bố và tập trung vào cái thùng đựng mồi. Nắm lấy hai tai xách bằng nhựa bên hông thùng và huy động toàn bộ các thớ bắp tay bắp chân để đứng dậy, song tôi chỉ có thể nâng cái thùng lơ lửng giữa không trung một đoạn ngắn là buộc phải thả nó trở lại mặt đất vì quá nặng.
“Ối! Bố chứa gì trong cái thùng đựng mồi này mà nó nặng khiếp thế?” Tôi nhăn nhó hỏi ông.
Đầu bố khẽ nghiêng về một phía. “Ai bảo với cậu đó là cái thùng đựng mồi?”
Tôi ngẩn mặt ra. Đúng là chẳng ai bảo với tôi đó là cái thùng đựng mồi cả. Đấy là do tôi tự nghĩ thế. “Thế nó là cái gì ạ?”
“Nó là cái thùng giữ nhiệt để ướp cá, còn đồ đựng mồi là cái hộp nhựa màu đỏ nằm kế bên thùng giữ nhiệt, ngay sát chân cậu kia kìa.”
Đáng đời nhé, thứ cầm đèn chạy trước ô tô. Loại trứng mà đòi khôn hơn vịt, tôi ngại muốn độn thổ, ngán ngẩm nhìn lại cái thùng giữ nhiệt và khá chắc trong cái thùng này phải chứa đến hơn hai chục cân đá lạnh chứ chẳng chơi. Ấy thế mà lúc ở nhà, tôi đã thấy bố nhấc bổng nó lên thùng xe chiếc bán tải dễ như bỡn. Có thế mới biết ông khỏe hơn tôi nhiều đến nhường nào.
“Hãy kéo nó ra đây,” bố bảo, bàn tay bố vẫy vẫy. “Ta và cậu cùng hợp sức xách nó ra chỗ bờ sông.”
Trong lúc buộc mồi câu cho cả hai chiếc cần, bố để ý đến tôi chăm chú đọc dòng tin nhắn vừa được gửi tới trên điện thoại, và hỏi. “Ngài Điều tra viên đang kiểm tra tình hình đấy à?”
“Đâu có,” tôi nói, trao ánh mắt cho bố. Nhưng bố chăm chú vào việc mà ông đang làm. “Anh ấy chỉ… hỏi han thôi ạ.”
“Thế nó hỏi gì?”
Tôi nhận ra cố bênh vực cho Tom là một việc làm ngu ngốc, nhưng vẫn nói, “Anh ấy hỏi buổi đi câu thế nào rồi.”
Cái đảo mắt của bố như thể phát ra tiếng hai thứ ấy có khác quái gì nhau không? Song thay vì tiếp tục đả động đến Tom, ông đưa cho tôi cái cần câu đã được đảm bảo các khoen xếp thẳng hàng, và mồi giả đã được buộc chặt vào dây cước. “Đây, cầm lấy. Xong hết cả rồi đấy.”
“Cảm ơn bố,” tôi nói, xòe tay ra đón lấy cái cần câu từ tay ông.
“Được rồi, giờ thì triển thôi.” Bố dậm chận hai lần xuống đất như thể kiểm tra lại đôi ủng sẽ không bị trượt trong lúc lội nước, trước khi đứng dậy khỏi ghế và rời khỏi trại, đi chậm về phía mépbờ sông, cùng với cái cần câu của ông trong tay. Tôi cũng đứng dậy và bước theo sau bố. “Ta cá là cậu chẳng biết gì về cách quăng dây luôn nhỉ?”
“Bố đọc con như một cuốn sách vậy,” tôi nói.
“Ta không đánh giá cao kỹ năng dạy bảo của mình cho lắm, nhưng ta sẽ cố hết sức để truyền đạt lại cho cậu những gì mà ta biết; cũng may là hôm nay mặt nước khá yên, và gió lặng, nên ta cá nó sẽ dễ dàng cho cả hai ta thôi. Nhìn kỹ nhé.” Nói đoạn, ông đưa cây cần ra sau lưng rồi vụt nó về phía trước. “Đây gọi là kỹ thuật quăng dây qua đầu.” Cái mồi giả có hình thù của một con cá mòi màu vàng chanh phóng vọt vào không trung với một vận tốc rất nhanh, bay ra giữa dòng chảy con sông cùng với sợi dây cước bạc, tung bay trong gió như một dải cực quang chuyển động trên bầu trời.
Sau vài giây biểu diễn trên bầu trời thì cái mồi câu giả cuối cùng cũng chìm xuống nước. Song bố không gợi ý tôi quăng dây theo ông ngay lập tức, dù tôi khá háo hức. Thay vào đó, ông dạy tôi cách cầm cần câu sao cho đúng, rằng thay vì cầm vào vì trí đuôi của cây cần, tôi nên cầm vào bộ phận đốc được gắn với máy câu để hạn chế tình trạng mỏi tay, bởi chúng tôi đang sử dụng mồi câu giả nên cần lặp lại quá trình di chuyển, thu dây về và quăng dây câu thường xuyên; đồng thời để mồi câu được quăng đi xa hơn. Kế đến bố cho tôi hay thông tin chiếc máy chúng tôi đang sử dụng là máy câu dọc, và bố chỉ cho tôi mẹo kẹp ngón tay trỏ lên sợi dây cước để tăng tối đa sức căng của dây trước khi mở gọng gió. Cuối cùng, bố thu dây câu của ông về và làm mẫu cho tôi các tư thế quăng dây câu: nào là ném mồi ngang, ném mồi xoáy, hay vẩy mồi; nhìn qua thì cái nào cũng có vẻ dễ dàng và ngon ăn, nhưng bố khuyên tôi nên sử dụng kỹ thuật quăng dây qua đầu bởi vì nó đơn giản và có tính ứng dụng nhất mà vẫn đạt được độ hiệu quả lớn. “Đừng cố dùng lực để đẩy mồi đi xa hơn, bởi phần đọt cần dù dẻo dai nhưng nó vẫn rất yếu và có thể bị gãy khi lượng lực quăng dây phẩn bổ không đồng đều,” bố nói. “Cách tốt nhất là hãy dựa vào sức bật của cây cần.” Tôi chăm chú quan sát và lắng nghe. Gật đầu rồi gật đầu.
“Toàn bộ kiến thức cơ bản về cách quăng dây là thế. Có điều gì mà cậu không hiểu không?”
Tôi nhìn ông, và nở nụ cười. “Con khá tự tin đấy.”
Nhưng việc dường như không quen nhận được một cử chỉ gần gũi từ tôi khiến bố không biết phải đón nhận nó thế nào. Ông lúng túng nhìn sang chỗ khác để dứt ra khỏi ánh mắt của tôi, tay hẩy hẩy cây cần về phía mặt nước. “Được rồi. Vậy cậu hãy làm thử đi.”
Gần hai giờ sau, với cái lưng và hai cánh tay cùng lúc mỏi rã rời sau một thời gian dài liên tục vận động, và với chiếc áo phông ướt đẫm mồ hôi, tôi nhìn về hướng bố, người lúc này vẫn đang mải mê dẫn dụ lũ cá trong khoảng nước cao gần bằng đôi ủng dài sát đầu gối ông, giữa dòng chảy của con sông như thể không biết mệt mỏi, và hỏi. “Bố có khát không ạ?”
“Không hẳn,” bố đáp, không nhìn lại.
Cảm nhận vị chát và mặn của những giọt mồ hôi thấm qua đôi môi khô khốc, tôi thở ra hổn hển, hai tay chống hông với cái lưng khọm xuống, hầu như chẳng còn chút sức để quăng dây câu thêm một lần nào nữa. “Vâng, con cũng ổn ạ.”
Nhưng nghe giọng tôi không ổn lắm, và bố biết thế. Bố quay lại nhìn tôi với cặp lông mày nhíu xuống. “Nếu cậu thấy mệt thì cứ về trại ngồi nghỉ đi. Đó đâu phải là chuyện gì đáng xấu hổ.” Rồi ông nói thêm khi thấy tôi vẫn cố nấn ná ở lại trên sông. “Ta biết cậu muốn chứng tỏ cậu là một người đàn ông trong mắt ta, nhưng ta bảo cậu điều này: sự cố gắng của cậu thật vô ích và đang biến cậu thành một trò cười đấy.”
Tôi chớp chớp mắt. “Sao thế ạ?”
“Cậu đáng lẽ phải là người nhận thức rõ điều này hơn ai hết chứ! Thề có trời xanh, trong mắt ta, cậu là một gã đàn ông, đàn ông như tất cả các gã đàn ông khác trên cõi đời này. Chẳng phải vì nhẽ thế mà ta đã nổi điên khi Tom đưa cậu về ra mắt đấy sao? Bởi vì cậu là một gã đàn ông!”
Tôi gục đầu xuống ngực, thoáng nhớ lại biểu cảm tức giận đặc sắc và tiếng hét của bố trong bữa Tạ ơn năm nào, khẽ rùng mình. “Không ra vẻ với bố nữa.” Tôi vung tay lên chào như thể nói lời từ biệt bố. “Con về trại nghỉ đây. Con kiệt sức rồi.” Chập choạng chống lại dòng chảy của con sông, tôi bước những bước dài về phía bãi đất, cố nhấc cao đôi chân hết sức có thể để tránh không làm nước lọt vào bên trong đôi ủng.
Về tới trại, tôi mừng rỡ tìm ngay đến cái ba lô chứa bình nước và thức ăn đang nằm trong bóng mát của hàng thông như hai người bạn lâu năm xa cách. Mở khóa ba lô và lấy ra một chai nước khoáng rồi tu thẳng một mạch, cái chai đầy nước trong nháy mắt chỉ còn là một vỏ nhựa rỗng không.
Năm phút sau, trên con sông, mọi thứ bất ngờ diễn ra thật bận rộn. Bố Alfred dường như vừa câu được một con cá lớn. Một con cá vược! Bộ vây đuôi ánh kim cùng những thớ cơ bắp chắc nịch của con cá thấp thoáng hiện ra phía sau những đợt sóng bạc quẫy tung nước, đang cố thoát khỏi cái lưỡi câu ba tiêu móc vào miệng và lực kéo của bố. Tôi phấn khích đứng chồm dậy và bước nhanh về phía bờ nước, reo hò cổ vũ. Nhưng tình hình sớm cho thấy có vẻ như bố cần nhiều hơn ở tôi là một sự cổ vũ. Ông cần một sự giúp sức.
“Con cá lớn quá,” ông la lên, bước giật lùi lại về bờ trong lúc liên tục thực hiện động tác kéo và thả để bào mòn sức lực của con cá lớn. “Nick! L-lấy cho t-ta... Khốn khiế... Con vậ... quá. Ta để x-xổ... nó mất.”
Chữ được chữ mất, song kỳ lạ thay tôi bỗng hiểu ý bố tường tận như hai người bạn thân chỉ dựa vào mấy mẩu thông tin sơ sài. Tôi quay lưng, hớt hải chạy nhanh về trại và cầm lên cái vợt lưới nằm trơ trọi một vùng giữa bãi đất, sau đó tức tốc chạy xuống dưới sông để đưa nó cho bố. Bố nhận lấy cái vợt lưới từ tay tôi, truyền cho tôi chiếc cần và bảo tôi hãy giữ lấy nó thật chặt, rồi ông bước nhanh về phía trận quẫy nước dữ dội giữa dòng.
Sau chừng một phút vật lộn, con cá vược lớn bị bố nhấc bổng lên giữa không trung, vẫy vừng trong sự tuyệt vọng đằng sau tấm lưới mắt cáo. Những sợi nắng chấm phá trên bộ vây óng ả của con cá ánh lên thứ màu ảo diệu của một tấm da bọc vàng.
Hai bố con tôi đem chiến lợi phẩm trở lại bờ. Con cá vược lớn, vẫn vẫy vùng khỏe chẳng kém gì lúc ở dưới nước khi bố Alfred tháo gỡ lưỡi câu mắc trong hốc mang cho nó, bỗng nhiên trở nên bất động như bị đánh thuốc mê ngay khi vừa được thả vào cái thùng giữ nhiệt đang đợi sẵn.
“Con cá lớn thật,” bố cười khà khà. “Có khi phải nặng bảy cân rưỡi, tám cân ấy chứ chẳng chơi.”
Nói tôi đạo đức giả cũng được, nhưng trong một thoáng nhìn con cá đớp những làn hơi thoi thóp cuối cùng của cuộc đời, tôi đã thấy tội nghiệp cho nó.
“Đừng nhìn vào mắt chúng,” bố nói, tay dứt khoát đóng nắp thùng giữ nhiệt lại, kéo tôi ra khỏi dòng suy nghĩ. “Sẽ dễ dàng hơn nếu cậu hướng đầu óc tới mục tiêu ban đầu của cậu: cậu đến đây để câu cá và cậu đã câu được một con cá lớn trong ngày đầu tiên đi câu. Đó không phải là một thành tích mà ai cũng đạt được.”
“Nhưng bố mới là người câu nó mà.”
Bố bước qua tôi, di chuyển về hướng trại. “Năm mươi năm mươi.” Đầu ông ngoảnh lại, nói với tâm trạng vui vẻ. “Nếu không có cậu giúp sức thì ta cũng chẳng đưa con thủy quái ấy lên bờ được.” Gọi con cá là thủy quái thì có vẻ không đúng lắm, nhưng với trọng lượng bảy cân rưỡi, tám cân của mình, con cá vược đã gần đạt đến trọng lượng lớn nhất từng được tìm thấy của loài này rồi.
Tôi lẳng lặng theo sau bố, nhìn chăm chăm xuống những dấu chân bố để lại trên lớp đất xốp, tự dặn mình đừng vì cảm xúc cá nhân mà làm hỏng bầu không khí vui vẻ đang có. Đúng vậy, mày cần phải hướng đầu óc đến mục tiêu ban đầu của mình. Mày đồng ý tham gia vào chuyến đi này là để làm thân với ổng.
Ngồi trên ghế, tôi nghiêng người lôi ra một chai nước khoáng từ ba lô rồi đưa nó cho bố. Cái gật đầu cảm ơn của bố phản chiếu trong mắt tôi, cùng những ngón tay chằng chịt nếp nhăn và sẹo của bố. Và tôi tự hỏi liệu mỗi câu chuyện riêng nào đằng sau những dấu tích ấy đã hình thành nên chúng.
“Phía dưới kia, người ta mới xây dựng một cái công viên tiểu bang - công viên Don Carter. Mà nó cũng chẳng mới lắm, cách đây phải chừng bảy, tám năm gì đó rồi.” Không khí lọt vào trong cái chai nhựa khi bố uống nước tạo thành những bọt khí tròn trịa, bay ngược về phía đáy chai rồi lơ lửng tại đó. Ông đưa tay lên lau mặt. “Câu cá ở đó cũng hay và tiện vì người ta cho thuê thuyền, và cũng chẳng phải đối mặt với đủ thứ rắc rối khi lái xe qua khu rừng này làm gì cho bất tiện. Nhưng đi câu ở những điểm tự phát thế này vẫn có cái hay riêng của nó, nhỉ!”
Tôi đưa mắt nhìn xuyên qua đám côn trùng bay lơ lửng trên hàng cỏ đuôi mèo hướng công viên Don Carter. Cái nắng ban trưa như biến mặt nước phẳng lặng thành một dải giấy bạc khổng lồ, thâu tóm hình bóng méo mó của một vài đám mây hiếm thấy trên bầu trời cùng cây cối dọc hai bên bờ. Xa hơn chút nữa, hơi nước bốc lên từ dòng sông kết hợp với nắng nhào trộn tất cả mọi thứ thành một vệt sơn màu xanh lục nhàn nhạt. Không thể thấy gì xa hơn thế.
“Vâng. Con cũng thích ở đây hơn. Không ồn ã và tự do.”
“Ta với mấy tay bạn cũng thấy y chang vậy. Nhân tiện nhắc đến lũ khốn, mấy tên cổ đỏ[2] ấy sẽ phải chố mắt với thứ mà chúng ta đã câu được ngày hôm nay cho mà xem.” Bố cười, tu nốt chỗ nước còn lại trong chai. Rồi, không biết gặp phải một cái gì đó mà cơn phấn kích đột ngột rời bỏ bố, giọng ông lắng xuống, và hỏi tôi. “Nó có nhắn tin gì cho cậu nữa không?”
“Tom ấy ạ?” Tôi hỏi, nhưng không đợi ông trả lời mà nói tiếp. “Anh ấy không.”
Sự thật là có, rất nhiều nữa là đằng khác.
Hai hàng mi bố cụp xuống một vẻ thất vọng, đồng thời đầy lóng ngóng như thể chính ông cũng không biết mình đang mong chờ và đợi chờ điều gì. Và tôi nói, “Anh ấy cũng nhớ bố lắm.”
Bố tròn mắt nhìn tôi, rồi cũng là ánh mắt ấy lao thoắt ra phía dòng nước, trốn chạy. “Giá mà ta tin cậu được. Nó thậm chí còn chẳng thèm chào hỏi ta mỗi sáng rời nhà, và mỗi tối trở về.”
“Bởi vì anh ấy là bố mà. Cả hai đều quá cứng đầu để chịu nhún nhường trước người kia.”
Một khoảng lặng dài. “Ta nhớ thằng nhóc. Và ta sợ rằng mình đang đánh mất nó.” Bố cuối cùng cũng chịu thừa nhận. “Tom thiếu chút nữa đã không có mặt trên đời này, cậu biết chứ?”
Tôi nhấp nhổm trên ghế. “Có chuyện đó sao ạ?”
Bố gật đầu. “Phải. Halle bị mắc chứng khó sinh vì căn bệnh hen suyễn của bà ấy. Ngày Halle chuyển dạ, thường thì những sản phụ mang bệnh nền như bà ấy sẽ được bác sĩ chỉ định đẻ mổ để đảm bảo sức khỏe và tính mạng cho cả hai mẹ con. Nhưng ngày hôm ấy Halle có một thể trạng rất tốt và bác sĩ đã cho phép chúng ta lựa chọn giữa hai phương pháp đẻ mổ và đẻ thường. Sau một cuộc thảo luận kỹ càng, ta và Halle cùng nhất trí chọn phương pháp đẻ thường bởi vì nó thuộc về lẽ tự nhiên, và có nhiều mặt lợi ích về sức khỏe cho cả bà mẹ và đứa trẻ. Diễn biến của cuộc sinh nở sau đó không như chúng ta ngờ đến, Halle đột nhiên ngừng các cơn co tử cung trong quá trình chuyển dạ, song cả ta và bà ấy lại không nhận ra đó là một hiện tượng nguy hiểm vì thiếu cả kiến thức lẫn kinh nghiệm. Ba mươi phút sau đó là khoảng thời gian kinh hoàng nhất đối với hai vợ chồng ta, bởi đứa con trai của chúng ta rất có khả năng đã bị chết ngạt trong người của mẹ nó. Halle ngay sau đó được các bác sĩ điều chuyển sang sinh mổ. Điều tiếp theo thì tất cả chúng ta đều đã rõ, ca sinh mổ thành công tốt đẹp, sức khỏe của hai mẹ con đều ổn định. Nhưng cho đến giờ phút này, ta vẫn không ngừng cảm tạ Chúa Trời vì đã cho phép chúng ta được giữ lại thằng bé.”
“Nó quả là một trải nghiệm đáng sợ.”
“Còn hơn cả đáng sợ ấy chứ. Hết hồn sẽ là một từ chính xác. Đó là lý do tại sao người cha này lại bảo vệ thằng nhóc thái quá đến thế ngay từ ngày nó lọt lòng, bởi vì ta đã suýt đánh mất nó. Ngờ được không, trái hẳn với mối quan hệ của chúng ta hiện tại, ngày ấy Tom thường xuyên bám theo ta thay vì Halle đấy.”
Tạm gác câu chuyện qua bên, bố và tôi cùng nhau trông sang hướng những bụi rậm bên kia bờ, nơi có tiếng động cơ máy đang vọng lại. Không lâu sau, chiếc thuyền máy cùng người đàn ông vốn vừa thoát ra từ một con kênh đâu đó bơi ngang qua. Ông ta vung tay lên không trung khi thấy chúng tôi và chào hỏi vài câu xã giao với bố, rồi mau chóng khuất dạng phía sau hàng cỏ đuôi mèo nhanh như cái cách mà ông ta xuất hiện.
Và bố tiếp tục kể. “Halle là một bà mẹ lý trí. Bà ấy không ngại thể hiện mình là một người mẹ đầy ắp tình cảm, nhưng không thiếu phần nghiêm khắc. Còn ta thì giống một đồng minh hơn là người cha của Tom.” Một khoảng lặng khác, bố đăm chiêu nhìn xuống mặt đất giữa khoảng cách hai chân ông. “Và chắc hẳn điều này đã đả kích thằng nhóc nhiều hơn tất thảy; cái cách mà ta phản ứng về tình bạn giữa nó và thằng nhóc Benjamin nọ ấy. Cậu biết không, ngày ấy ta thực lòng biết Tom có cảm tình với thằng nhóc đó, chỉ là ta không dám thừa nhận hai đứa chúng, bởi thực tại Tom là một người đồng tính khiến ta khiếp sợ. Ta không đủ bản lĩnh để… khích lệ thằng nhóc “phát triển theo bản năng tự nhiên của nó” như Halle đã làm.”
“Tình yêu mà mẹ Halle dành cho Tom là một sự phi thường, nhưng không một ai có thể phán xét bố cả,” tôi nói. “Bản năng của một ông bố là luôn biết điều gì tốt nhất cho con trai của ông ta; và đúng, đôi khi hành động của ông ta không phù hợp với mong muốn và hoàn cảnh sống của đứa con ấy, nhưng ông ta chỉ đang làm việc của một ông bố mà thôi.”
Hai mắt bố mở lớn hết cỡ. “Ta ngạc nhiên là cậu thấu hiểu điều đó đấy.”
“Đó là mặt lợi ích của việc được nuôi dạy bởi một bà mẹ châu Á sùng đạo đấy ạ,” tôi khoa trương nói, mặt hếch lên tự hào.
Bố cố lắm để không cười, nhưng rốt cuộc ông vẫn cười phá lên. Sau đó ông đổi tư thế ngồi, nhấc mũ đội đầu lên không trung và vuốt ngược mồ hôi cùng đám tóc thưa ướt nhẹp nước trên đầu ra sau gáy. “Ta mừng vì chúng ta đã thực hiện chuyến đi câu này cùng nhau, để hiểu rõ về nhau hơn.”
“Con cũng vậy.”
“Ta nghĩ ta đã sẵn sàng cho điều này.”
Hơi lúng túng, tôi hỏi, “Điều gì cơ ạ?”
“Học cách để ở bên hai đứa,” bố nói, và lồng ngực tôi bắt đầu đập thình thịch, tay chân cứng đờ lại. “Ta không dám đảm bảo nó sẽ xảy ra ngay trong ngày một ngày hai, nhưng ta đã sẵn sàng thay đổi. Bởi vì ta yêu con trai ta và ta rất nhớ nó. Vậy nên, cậu vui lòng làm một người rộng lượng và cho ông già này một cơ hội thứ hai, để bắt đầu lại mọi thứ một cách đúng đắn chứ?”
Có cả tỷ câu từ tôi muốn nói về lời thỉnh cầu này của bố, nhưng điều tôi mừng nhất vẫn là tôi đã có đủ bình tĩnh để không tỏ ra đây là một chuyện gì to tát cả. “Chào Ngài Armitage,” tôi nói, đưa tay về phía bố, thực hiện lại màn chào hỏi y chang lần đầu tôi gặp ông. “Con là Nick, một người đồng nghiệp của Tom.”
Chúng tôi trở về nhà vào cuối buổi chiều, và tuy hai bố con không câu thêm được một con cá-ra-hồn-cá nào khác ngoài lũ cá mang xanh háu ăn bé bằng nửa bàn tay và mấy con cá mút trắng chưa đến tuổi trưởng thành (tôi và bố thả chúng đi hết), nhưng chỉ với con “thủy quái” mà bố câu được trước đó cũng đủ để coi buổi đi câu thành công vượt sức mong đợi rồi.
“Mấy giờ rồi nhỉ?” bố hỏi, mắt trông sang chiếc Toyota của Tom đang đậu cạnh bụi hoàng dương xơ xác.
Tôi kiểm tra đồng hồ đeo tay. “Năm giờ ba sáu phút chiều, thưa bố.”
“Thằng nhóc đi làm về sớm ư? Ngạc nhiên là nó không gọi cuộc điện nào cho cậu đấy.”
“Anh ấy biết mình không cần phải làm thế,” tôi nói, tự hiểu không cần cho bố hay về những tin nhắn và cuộc gọi nhỡ mà Tom để lại trong lúc tôi đặt điện thoại vào chế độ im lặng.
Cùng mở cửa xe và bước ra ngoài, bố sau đó nhảy lên thùng xe và bảo tôi mang con cá vược vào nhà trước, còn ông sẽ đem đồ câu cất vào kho. Kế đến bố nói nếu tôi có nhã hứng, bố sẽ dạy tôi cách làm sạch con cá sau bữa sáng ngày mai, còn hôm nay đã quá mệt để chúng tôi lăn vào bếp và nấu một thứ gì đó rồi. “Hãy đặt burger ở quán ăn của gã Gabe Phì Nộn dưới chân đồi. Rồi cậu sẽ thấy McDonald, Burger King, Wendy’s hay bất cứ loại thức ăn nhanh nào mà cậu và thằng nhóc hay gọi chỉ đáng là thứ bỏ đi,” bố nói, rồi căn dặn thêm như thể nếu ông không nói ngay lúc này thì cơ hội sẽ vuột mất. “Và đừng quên đặt thêm mấy cái bánh hồ đào nhé. Gã làm món đó ngon hết xảy.”
Vẫn như thường lệ, con Hạt đậu luôn là người đầu tiên chạy ra mừng đón khi ai đó trở về nhà. Con chó tỏ ra đặc biệt hứng thú với con cá lớn mà tôi xách trên tay, vẫy đuôi chạy theo và không ngừng sủa với vẻ hào hứng. Vào đến nhà, thay vì nhận được một ấn tượng tương tự mà tôi hy vọng sẽ nhận được ở Tom, anh đứng đợi tôi sẵn tại chân cầu thang với một vẻ mặt hết sức phiền lòng. “Sao em không trả lời cuộc gọi của anh?” Anh đi nhanh về phía tôi, buông lời trách móc. “Anh đã lo đến phát ốm đấy.”
“Thì em đã nhắn lại cho anh rằng mọi chuyện vẫn ổn rồi còn gì.” Tôi giải thích.
“Nhưng theo anh hiểu, bố có thể giả dạng em và gửi tin nhắn đó cho anh.”
Mặt tôi nghiêm lại. “Tom, anh cần phải ngừng ngay suy nghĩ đó lại trước khi nó hủy hoại anh. Anh đang rất không công bằng với bố đấy. Ông không có hành động gì khác ngoài sự tử tế với em trong suốt chuyến đi cả.”
Anh tỏ ra cứng đầu, mặt cúi gằm. Thậm chí là không muốn tin. Đầu óc uể oải trôi vào một vùng trời riêng, trốn tránh.
Tôi nắm lấy bả vai Tom và sốc anh lại, buộc anh phải lắng nghe. “Nhìn em đi, Tom. Em biết ba người chúng ta đang trải qua một giai đoạn khó khăn và em biết, mọi thứ sẽ dễ dàng hơn nếu anh quyết định ghét bố. Nhưng anh không ghét ông ấy.” Anh lắng nghe nhưng không phản ứng lại, vẫn giữ nguyên thái độ hờ hững. Và tôi nói tiếp, “Bố đã gửi lời xin lỗi tới em vì những gì ông gây ra trong quá khứ. Một lời xin lỗi chân thành. Thật đấy. Thêm nữa, ông còn thú nhận là ông nhớ anh rất nhiều.”
Tom thoáng lộ ra chút xao động nơi ánh mắt, nhưng có lẽ là tôi nghĩ vậy. Bởi ngay từ nhỏ, theo như lời bố Alfred kể với tôi về một Tom lầm lì sau cái ngày Nilah chuyển đi, thì anh đã học được cách để che giấu cảm xúc một cách tài tình.
“Em không nói đỡ cho bố đâu. Ngay chính ông cũng biết một lời xin lỗi sẽ không thể sửa chữa hết mọi thứ ngay được, nhưng ông sẵn lòng thay đổi và bù đắp cho chúng ta. Và nếu anh cũng thực sự nhớ ông ấy như em nghĩ. Làm ơn, đừng để bản thân phải hối hận khi mọi sự đã quá muộn.”
Tôi bỏ Tom lại một mình để anh có không gian suy nghĩ và đi vào bếp. Thả con cá lớn trong chiếc bồn rửa, tôi tự hỏi mình biết phải cất con thủy quái này ở đâu bây giờ? Chẳng nhẽ lại cứ tống thẳng nó vào ngăn đông tủ lạnh hay sao? Nghe chừng cũng hợp lý nhưng chỉ có điều chúng tôi vẫn còn rất nhiều thực phẩm cất trữ trong tủ, và kích cỡ ngăn chứa tủ đông cũng không đủ lớn để cho phép tôi làm điều đó; bên cạnh đó, tôi cũng không chắc liệu thịt cá có còn được tươi nguyên sau một đêm nằm trong ngăn mát tủ lạnh. Sau một hồi loay hoay mà vẫn không tìm ra giải pháp thích hợp, cuối cùng tôi kết luận sẽ để bố Alfred quyết định chúng tôi nên làm gì với con cá.
Tôi phải rửa tay hai lần với xà phòng và một lần dùng chanh tươi mới loại bỏ được hoàn toàn mùi tanh của cả chuyến đi câu bám trên các kẽ móng tay. Trên đường trở ra phòng khách, tôi nghe thấy tiếng mở cửa trước và những bước chân của người vào nhà đột ngột dừng lại. Tôi âm thầm ngó đầu ra nhìn thì thấy cái bóng tí hon của con Hạt Đậu, đang vô tư chơi đùa với quả bóng đồ chơi giữa hai người đàn ông chật vật tìm lời nói.
“Chào nhóc.” Alfred tháo mũ xuống, vo tròn nó giữa hai bàn tay run rẩy của ông. Lo lắng gọi tên Tom với thật nhiều hy vọng. “Nghe này, ta–”
Tom không đáp lại lời chào của bố, và anh dường như cũng không đủ kiên nhẫn để nghe hết câu nói ấy của ông. Trước sự ngạc nhiên của ba người chúng tôi, anh bước nhanh về phía bố và ôm chầm lấy ông trong im lặng. Một sự im lặng chứa cả ngàn lời nói.
Phải mất một lúc, tâm trí của Alfred mới định hình nổi chuyện gì đang diễn ra, nhưng cái ôm ấm áp của Tom khiến nét bối rối trên gương mặt bố tan ra nhanh chóng. Ông sau đó vui sướng đặt tay lên lưng anh với đôi mắt rưng rưng xém khóc, và cuối cùng thì ông cũng khóc khi cảm nhận được đôi tay anh siết ông lại chặt hơn. Có lẽ bởi vì ông đang thấy mình được sống lại những ngày hai cha con thuở thơ bé, thời điểm mà giữa họ chưa có những xung đột và khoảng cách gần như không thể hàn gắn, chỉ có tiếng cười và mọi thứ cơ bản đơn giản hơn rất nhiều.
[1] Nguyên văn: Buddy.
[2] Nguyên văn: Redneck. Một thuật ngữ xúc phạm áp dụng cho những người Mỹ da trắng, có liên quan chặt chẽ với người nông dân da trắng miền Nam Hoa Kỳ.
Bình luận
Chưa có bình luận