43


Có thể nói, ba người chúng tôi đã dành trọn cả mùa thu năm đó để tập làm quen với nhau như những người xa lạ một lần nữa. Quá trình ấy diễn ra không hề suôn sẻ, mượt mà hay ngon lành như những lát bánh mì phết bơ đường bạn ăn vào mỗi sáng sớm hoặc trước khi lên giường đi ngủ vì muốn nuông chiều bản thân thêm một chút, mà nó giống như việc ăn quá nhiều kẹo nổ đôi khi khiến lưỡi ta bỏng rát, song ta vẫn sẵn sàng bỏ thêm một vốc kẹo nữa vào miệng ngay khi có thể bởi ta yêu tính thử thách mà nó đem lại. Điều quan trọng nhất là, tất cả chúng tôi đã thực sự cố gắng học cách ở bên nhau và giúp cuộc sống của nhau trở nên tốt đẹp hơn. Và cả niềm tin của tôi cũng vậy. Cây hướng dương nhỏ bé ấy tuy lớn chậm rồi lại chậm hơn trong cái tiết yên bình cuối thu khi mùa rực rỡ bước tới hồi kết thúc, nhưng nó vẫn phát triển theo từng ngày dưới sự bảo trợ của mẹ Harriet; dần dần chuyển mình và trở nên kiên cường tới đáng kinh ngạc khi hết lần này qua lần khác đương đầu không chút sợ hãi với cái giá lạnh chợt ập đến ngày đông về. Dẫu có đôi lần, các trận dông điểm giao mùa dồn dập từng cơn dần uốn cong bóng dáng bé nhỏ theo hình hài của gió.

       Tôi chính thức nghỉ dạy học tại trường Sunset vào cuối tháng Mười hai cùng năm vì không thể thực hiện được yêu cầu các giáo viên phải đến trường ít nhất một lần mỗi tuần, để đảm bảo cho công việc giảng dạy của nhà trường được diễn ra một cách suôn sẻ nhất, dẫu họ đã tạo rất nhiều điều kiện cho tôi. Và tôi chân thành cảm ơn họ vì điều đó.

       Đến giữa tháng Một, thời điểm mà cái lạnh biến sương đêm thành băng tuyết đọng trên bậc cửa sổ và những chiếc muỗng bạc sẽ không thể cầm lên nổi nếu chưa được tráng qua nước ấm, tôi cùng Tom tất tả đóng gói hành lý để quay trở lại Los Angeles vì một sự kiện trọng đại: chị Jane tới ngày hạ sinh.

        “Anh có nghĩ em nên cạo râu không?” Tôi hỏi Tom, người lúc này đang tranh giành với tôi từng phân một diện tích trước gương nhà tắm. Mải mê tạo kiểu tóc với chiếc máy sấy.

        Anh tắt máy sấy, ra vẻ sốc. “Không. Không đời nào. Anh yêu bộ râu của em.” Anh đưa tay lên xoa má tôi, âu yếm bộ râu, rồi làm bộ hài hước. “Cũng giống như em yêu đám lông bụng của anh vậy. Đó là lý do vì sao anh không bao giờ cạo chúng.”

    Tôi trao cho anh một cái nhíu mày nghịch ngợm. “Anh gớm quá đấy.”

     Anh rộng miệng cười hềnh hệch. “Thì anh phải chuẩn bị trước chứ.”

        “Chuẩn bị trước cho cái gì?”

      “Em giờ đang trong những ngày đầu sự nghiệp viết lách của mình. Ai mà biết, một ngày nào đấy em lại muốn viết một cuốn sách về cuộc đời chúng ta thì sao.”

      “Không có sự nghiệp nào cả. Nó chỉ là một thói quen để giết thời gian mà thôi, được chứ? Em sẽ quay lại công việc dạy học ngay khi có thể,” tôi bảo với anh, nghĩ nhanh đến kịch bản dang dở tôi đang viết về cuộc đời của một người phụ nữ trẻ trải qua những tình huống tréo ngoe trong sự nghiệp chính trị của cô, và những lần cô nàng hợp rồi tan với chàng Thống đốc bang lâm li bi đát không kém gì những vở soap opera bạn hay xem trên truyền hình mà tôi không muốn nhắc thêm ở đây, vì nó đã bao giờ được tôi hoàn thành đâu để mà nhắc. “Anh thật sự nghĩ em sẽ viết một cuốn sách về cuộc đời chúng ta ư?”

       Tom nhún vai. “Cái đó thì anh không chắc. Nhưng anh chắc chắn mình không muốn là một nhân vật tẻ nhạt trong cuốn sách kể về cuộc đời chúng ta chút nào.”

     “Nghĩa là anh thà bị mô tả như một ông chồng với tính cách và sở thích kỳ quặc còn hơn là một người tẻ nhạt?”

        Anh gật đầu không chút ngần ngại. “Chính là thế đấy.”

       Tôi phì cười. “Còn em sẽ viết mình tốt đẹp hơn cả một vị thánh.”

 

      Hầu hết mọi hãng hàng không đều xếp lịch trình chuyến bay duy nhất trong ngày của họ kết nối giữa các thành phố vào thời điểm tối muộn. Có trời mới biết lý do họ làm thế, dẫu rằng ai nấy cũng đều ngờ ngợ nhận ra cả thế giới này như đã bị dồn ép vào một cái hộp đầy ứ sự mông lung kể từ khi đại dịch bắt đầu rồi. Có lẽ tôi sẽ không nhắc thêm về cái đại dịch này nữa, vì càng nhắc đến nó tôi càng ghét cay ghét đắng những hậu họa mà nó mang lại và tất cả mọi thứ về nó; ngay cả khi thứ quái quỷ ấy đã giúp tôi có được cơ hội thuê phòng nghỉ cao cấp tại Langham Huntington hai ngày cuối tuần với cái giá chỉ bằng một phần ba thời điểm thế giới còn yên bình.

      “Cảm ơn anh.” Tôi kéo hành lý của chúng tôi ra sau mình và tip cho người vận chuyển hành lýnăm đô la. Người đàn ông nhanh nhẹn nhận lấy tờ giấy bạc từ tay tôi với một nụ cười công nghiệp, rồi giới thiệu qua với chúng tôi về đường dây liên lạc của hệ thống tổng điện thoại nội bộ khách sạn, và rời đi nhanh chóng.

       “Nơi nay tuyệt quá,” Tom nói. “Thảm trải sàn mềm mại, hành lang thì thơm nức mùi tinh dầu thơm. Anh yêu nó rồi đấy.”

       Tôi nhìn anh rồi cùng nhau tủm tỉm cười, trao đổi với nhau một vài lời khen ngợi về những đồ nội thất đặt trong phòng khách, cùng thăm quan nhà tắm, ngắm nhìn khu vườn về đêm từ ban công của khách sạn, và những ngọn núi, rồi Tom đi một mạch đến chỗ chiếc giường cỡ vua trong phòng ngủ và ném cơ thể to lớn của anh lên nó.

        “Em nghe thấy không?” Anh ngẩng lên nhìn tôi.

         “Nghe thấy gì cơ?”

         “Chính xác luôn,” anh nở một nụ cười ranh ma. “Chiếc giường không tạo ra bất kể tiếng động nào ngay cả khi anh nhảy tưng tưng trên nó. Tốt hơn những mấy lần cái của chúng ta ở nhà.”

      Tôi cười, đi đến và ngồi xuống bên cạnh anh. “Anh nghĩ em có nên gọi cho Lio và thông báo với anh ấy chúng ta đã đến khách sạn rồi không? Ý em là, đành rằng anh ấy dặn dò chúng ta phải liên lạc ngay với anh ấy sau khi đến nơi, song em lại không muốn làm phiền họ vào giờ giấc này. Mọi phút nghỉ ngơi hiếm hoi đều quan trọng với chị Jane.”

    Tom chống nắm đấm lên thái dương, dựng nửa người dậy trên giường. “Thật ngọt ngào khi em lo lắng cho Jane nhiều đến vậy, nhưng anh thấy Lio dặn dò thế là có lý do của cậu ấy đấy. Hôm nay là ngày hạ sinh của Jane mà. Có khi giờ này hai người bọn họ đang trong bệnh viện cũng nên.”

      “Anh nói có lý,” tôi đáp, đắn đó rút điện thoại ra khỏi túi quần và bấm nút quay số di động của Elliott.

      Có ai đó bắt máy khi điện thoại đổ chuông ở lần thứ hai, nhưng đó không phải Elliott, mà là giọng của một phụ nữ lớn tuổi. “Chào cháu, Nick. Lâu lắm rồi nhỉ. Cháu có khỏe không?”

     Tôi nhớ giọng của người phụ nữ ấy nhưng phải vắt nát óc mới nhớ ra được tên của bà - Tracy, mẹ của Elliott. “Vâng chào bác, bác Tracy. Cháu vẫn khỏe. Cảm ơn bác vì lời hỏi thăm. Bác và bác trai vẫn khỏe chứ ạ?” Họ vẫn khỏe, tất nhiên rồi, và sau đó là một vài lời hỏi thăm xã giao kiểu thủ tục nữa trước khi cuộc trò chuyện bước vào chủ đề chính. “Phiền bác chuyển máy tới Lio giúp cháu được chứ ạ?”

     “Ồ, bây giờ thì không tiện,” bà bảo với tôi. “Lio hiện đang ở trong phòng sinh nở cùng với Jane; con bé đang sinh em bé. Nhưng nó có dặn bác rằng cháu sẽ gọi và nhờ bác chuyển lời tới cháu.”

        “Ôi, vậy ạ!” Tom đứng bật dậy khỏi giường khi thấy tôi nói lớn hơn mức bình thường, và tôi giơ ngón tay ra dấu im lặng trước khi anh kịp hỏi điều gì.

       “Phải. Hai vợ chồng chúng đã ở trong đó khoảng hai lăm phút rồi.” Rồi bà nó thêm, “Thật ngọt ngào khi hai cháu không quản ngại đường xá đến vậy để tới đây hỗ trợ tinh thần cho vợ chồng bọn chúng. Các cháu là những người bạn tốt.”

        “Vâng, cảm ơn bác,” tôi nói. “Bọn cháu sẽ đến đó ngay.”

     Tom hiểu rõ nội dung cuộc trò chuyện giữa tôi và Tracy dù anh không là người trực tiếp nghe máy. Ngay khi tôi ngắt cuộc gọi, anh đã chờ sẵn bên cạnh tôi với áo khoác của cả hai đứa.


        Ban đêm không đồng nghĩa với việc bệnh viện bớt bận rộn hơn ban ngày. Tôi buộc phải ngừng lại hai lần giữa lúc hỏi han thông tin với lễ tân bệnh viện vì những cuộc gọi khẩn cấp chen vào giữa chúng tôi. Cô nàng lễ tân cho thấy một sự chuyên nghiệp khi vừa trả lời người ở đầu dây bên kia điện thoại vừa nhập một đống thông tin vào máy tính mà không bị lẫn lộn giữa các luồng thông tin ập đến một cách ồ ạt. Một cuộc gọi đến từ ông lão lớn tuổi sống trên phố Paloma báo tin người vợ yêu dấu của ông ấy đang có dấu hiệu gặp phải một cơn đột quỵ. Thông báo cho bộ phận xe cấp cứu bằng một nút bí mật nào đó mà tôi không biết được, sau đó cô nàng tận tâm hướng dẫn ông lão cách sơ cứu cho người mới bị đột quỵ và không ngừng trấn an ông lão rằng đã có người trên đường tới để giúp đỡ họ. Cuộc gọi còn lại thuộc về một người đi đường thông báo vừa có một vụ tai nạn giao thông thảm khốc giữa hai phương tiện gần một cửa hàng 7-Eleven trên đại lộ Orange Grove.

       Khi những cuộc gọi điện đã kết thúc được vài phút và tôi bắt đầu cảm thấy mình như bị lãng quên, thì cô nàng bất thần ngẩng mặt lên và hỏi tôi. “Xin lỗi anh vì cắt ngang. Chúng ta đến đâu rồi nhỉ?”

      “Vâng, quả là một đêm bận rộn,” tôi nói, có chút giật mình, hai nắm tay khoanh tròn đặt trên cái gờ cao của bàn lễ tân. “Tôi có một người bạn đang sinh con tại bệnh viện này. Tên của chị ấy là Jane Portman-Mulligan.”

        Cô nàng vén tóc ra sau tai rồi lại bắt đầu nhịp nhịp những ngón tay trên bàn phím máy tính theo kiểu mổ cò. “Ồ, chúng tôi có thông tin của cô ấy ngay đây: vợ của bác sĩ Mulligan. Họ quả là một cặp đẹp đôi, nhỉ?” Cái cách mà cô ta cười hô hố khi nói về mối quan hệ giữa Jane và Elliot không khỏi khiến tôi đặt ra nghi vấn. Nó giống như là một sự mỉa mai vậy. Và cô ta tiếp tục. “Cô ấy đã hạ sinh một bé trai cách đây mười phút. Mẹ tròn con vuông, tạ ơn Chúa. Tôi nói phải không? Và hiện tại họ đang nghỉ ngơi ở phòng 403. Hãy chuyển lời chúc mừng của tôi đến với gia đình nhỏ nhé.”

       Tôi nở một nụ cười theo kiểu đáp lễ. “Chắc chắn là thế rồi.”

      Khi chúng tôi đứng đợi thang máy, tôi ghé miệng sát tai Tom thủ thỉ. “Ban nãy lạ thật đấy. Anh nghĩ cô ta có được phép tiết lộ với chúng ta thông tin riêng tư của khách hàng như thế không?”

     Anh nhướn một bên mày nhìn tôi, hít vào một luồng hơi qua những kẽ răng, và lắc đầu. “Không.”


      Không có mùi tinh dầu thơm và những bức tường dán giấy lụa tạo nên bầu không khí sang trọng dọc hành lang như những khu nghỉ dưỡng. Mùi thuốc kháng sinh và thuốc tẩy đã trở thành đặc điểm chung mỗi khi nhắc đến những khu bệnh viện. Chúng dường như vừa là một đặc ơn vừa là một nỗi kinh hoàng, khi có khả năng gợi lên trong thâm tâm người hít phải chúng vô số những kỷ niệm đáng sợ, ngay cả khi chúng không thuộc về họ.

      Tôi và Tom tìm thấy tấm biển kim loại khắc con số 403 giữa những ánh đèn điện sáng trưng, nhưng chưa vội tiếp cận. Có một đoàn người mặc áo bờ-lu trắng tập trung trước cửa phòng đang liên tục bắt tay và gửi lời chúc mừng tới Elliott. Khi Elliott nhận ra sự có mặt của hai chúng tôi phía sau bờ vai của một vị bác sĩ, anh lịch sự xin phép những người đồng nghiệp và bước đến chào hỏi.

      “Chào các cậu, chuyến bay ổn chứ?” Anh trao cho mỗi người chúng tôi một cái ôm.

      “Không có gì để phàn nàn,” Tom nói. “Chúc mừng cậu, Lio. Đứa trẻ này thật may mắn khi được sinh ra và lớn lên trong tình yêu thương của gia đình cậu.”

        “Cảm ơn cậu rất nhiều vì những lời tốt đẹp, Tom.”

       “Nhìn anh mừng rỡ thế nào kìa, Lio. Không thể ngờ người đàn ông có sở thích sưu tầm những quân bài Pokemon giờ đã là một ông bố rồi cơ đấy,” tôi trêu trọc anh.

      Anh cười tươi. “Đó sẽ là quân bài tẩy của anh trong việc nuôi dạy thằng bé đấy. Anh sẽ cố gắng hết sức để khiến thằng bé mê mẩn Pokemon giống anh trước khi nó muốn ra ngoài và chơi bắt bóng.”

      Câu nói của Elliott đủ hài hước để khiến ba người chúng tôi cười khúc khích một lúc. Rồi Tom hỏi, “Jane và đứa bé thế nào rồi?”

      “Cả hai mẹ con đều rất tuyệt.” Nói đoạn, anh vẫy tay rủ chúng tôi đi cùng. “Đi nào, để tôi đưa các cậu vào thăm hai mẹ con.”

      Chúng tôi nghe lỏm được một đoạn hội thoại giữa Jane và mẹ chồng chị về đứa bé mới chào đời khi vừa bước vào phòng: một bên là lời tán thưởng về sự nỗ lực phi thường của Jane, lời tán thưởng còn lại dành cho đứa nhỏ. Thằng bé nặng những ba cân chín.

     Niềm vui khôn xiết của một bà mẹ vừa chào đón đứa con đầu lòng không sao làm mờ đi nét mệt mỏi trong đôi mắt của Jane sau giai đoạn vượt cạn đầy khó khăn. Song chị vẫn trao cho tôi và Tom nụ cười tươi tắn nhất của chị. “Chào hai người.” Chị đưa tay ra cho phép tôi nắm lấy. Hóc-môn sản sinh khiến chị dễ xúc động hơn mức bình thường và làm chị sụt sịt khóc. “Tụi này nhớ cả hai người nhiều lắm.”

       “Được rồi được rồi. Không mít ướt nữa nào. Giờ thì tất cả chúng ta đã có mặt đầy đủ ở đây rồi. Chị làm giỏi lắm.” Tôi vỗ về chị.

       Tôi đưa mắt nhìn xuống đứa bé mới chào đời lúc này đang được quấn trong một lớp chăn ấm áp kiểu ủ kén, trong vòng tay Jane. Thật khó để nhận xét thằng bé giống ai hơn ai giữa Jane và Elliott. Và Tom lên tiếng. “Thằng bé đã có tên chưa?”

      “Tất nhiên rồi. Tên của thằng bé là Dalton. Dalton Portman-Mulligan,” Elliott nói. Vẻ mặt tự hào ngầm tiết lộ chính anh là người đã  lựa chọn cái tên ấy.

      “Em thích nó đấy, dù cái tên nghe giống như thuộc về một tiền vệ chính hơn là một chàng trai sẽ mê mẩn những quân bài Pokemon.”

        “Chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết trước điều gì,” anh vui vẻ đáp lại.

        Tom tiến đến gần hai mẹ con Jane. “Thằng bé kháu khỉnh quá.”

        Jane cảm ơn Tom, rồi chị nhẹ nhàng đưa Dalton về phía anh, gợi ý. “Anh muốn bế thằng bé không?”

       “Anh sao?” Tom mở to mắt nhìn Jane. Rồi cũng với ánh mắt ấy, anh nhìn khắp lượt tất cả những người có mặt trong phòng như thể lo sợ điều đó là không được phép.

        “Hãy bế thằng bé đi, Tom,” Elliott nói.

        Tom trao nhanh cho Elliott một ánh nhìn, sau đó anh cúi xuống đón lấy đứa trẻ từ tay Jane với một nụ cười rạng rỡ như thể đang đón nhận đứa con của chính anh; và điều này khéo nhắc tôi nhớ đến việc Tom luôn muốn có một đứa con đến nhường nào. Nó được thể hiện thông qua từng cử chỉ nhỏ nhặt nhất của anh. Giả dụ như cách anh luôn bế bồng con Hạt Đậu tựa như ẵm trên tay một đứa trẻ, hay những lần anh phấn khích cầm lên đôi tất chân em bé nhỏ xíu và chà chúng lên hai má mình, khen ngợi chúng đáng yêu và mềm mại làm sao mỗi dịp chúng tôi đi chợ tại Walmart; và vẻ tiếc nuối xen lẫn chút bịn rịn của anh khi phải trả chúng lại quầy hàng. Tôi nhìn thấy rõ tất cả những dấu hiệu đó, rằng anh đang tự đè nén niềm mong muốn có con của anh xuống và chưa một lần mở lời gợi ý chúng tôi hãy có con ngay cả khi nó chỉ mang tính chất bông đùa, vì tôn trọng quyền lựa chọn của cá nhân tôi.

    Tôi bỏ mặc đám người lớn bàn luận những chủ đề xung quanh Dalton và vùi đầu vào chủ đề của riêng mình, rằng: liệu tôi có đang ích kỷ với Tom không? thì bất ngờ bị tiếng gọi của chị Jane giật ra khỏi dòng suy nghĩ.

         “Nick, em có muốn bế thằng bé một chút không?” Chị hỏi.

        Tôi mơ hồ quay sang Jane như người vừa trên mây xuống, không rõ thằng bé đã trở lại vòng tay chị từ lúc nào. “Ồ, em không nghĩ đó là một ý hay đâu.” Tôi khước từ với cả hai bàn tay giơ lên, xua xua lắc lắc. “E-em… sợ đánh rơi thằng bé lắm.”

        Tôi biết điều này nghe có vẻ kỳ quặc, nhưng tôi thậm chí còn chưa từng một lần bế bồng những đứa em của chính tôi mặc dù tôi rất yêu thương chúng rất nhiều, chỉ vì nỗi sợ mình có thể đánh rơi chúng. Cái đấy là thật. Thật khó để nói nỗi sợ này từ đâu mà hình thành, song công bằng mà nói, tôi cũng chưa bao giờ để tâm đến nó hay tìm cách xóa bỏ nỗi sợ ấy, mà cho phép nó tồn tại song song với mình như một lẽ tự nhiên theo kiểu ta sẽ ăn khi đói.

      “Thôi nào, Nick,” chị nài tôi. “Làm sao mà Cha đỡ đầu của thằng bé lại không bế nó được cơ chứ?”

     “Thật á?” Tôi và Tom cùng thốt lên, mặt đơ ra mất mấy giây. Rồi Tom nói, với giọng đầy tiếc nuối xen lẫn chút ghen tỵ. “Chà, đó quả là một vinh dự lớn. Nick này, anh lấy làm vinh hạnh thay cho em đấy.”

       Đó quả là một vinh dự lớn, thật vậy, tôi không phủ nhận. Chỉ có điều nó lại chẳng hợp với tôi đến thế. Tôi cảm thấy cơ thể mình cứ nặng trình trịch như đeo chì bởi những ánh mắt từ cả bốn hướng đổ dồn về phía mình (họ đang mong đợi gì ở tôi cơ chứ?), ngay bên là sự ép buộc gần chạm tới ngưỡng khó chịu lớn dần lên vì không còn sự lựa chọn nào khác ngoài phải nhận lấy thằng nhỏ từ tay Jane.

      Bước từng bước lại gần Jane, tôi lóng ngóng luồn một tay xuống dưới tấm chăn màu be và đỡ lấy lưng Dalton. Cảm nhận những sợi vải mềm mịn cù vào lòng bàn tay mình, tôi rụt rè áp thằng bé sát người, miệng lẩm bẩm cầu xin Chúa đừng để điều gì tồi tệ xảy ra. Dalton lúc này vừa mới thức, cái khóa kéo màu bạc sáng bóng của chiếc áo khoác tôi mặc đang thu hút hết sự hiếu kỳ của thằng bé. Tôi ngắm nhìn con, và tự hỏi thế giới này phát cuồng về những em bé vì điều gì? Vì sự đáng yêu của chúng ư? Này nhé, tôi đang bế một em bé trên tay ngay đây, mà tôi nào có nhìn ra được nét đó ở con và không hề nói quá, nét mặt tròn trịa làm thằng bé trông chẳng khác gì một ngón tay cái bị ngâm nước quá lâu khiến những đường nét nhợt nhạt trên gương mặt con càng thêm phần nhợt nhạt hơn nữa. Đấy là tôi vẫn còn đang đủ tử tế, để chưa đề cập với bạn đứa trẻ ấy (tất nhiên là tôi không nói về Dalton ở đây) rất có thể là một khoản đầu tư tồi và đem về cho bạn không gì nhiều hơn ngoài những gánh nặng và những khoản trách nhiệm nặng nề mà bạn buộc phải gánh vác thay chúng với xã hội, vì bạn đã nuôi nấng lên một kẻ chẳng ra gì. Quá trời những khó khăn và áp lực. Và nếu ai đó có nhã hứng muốn tranh luận với tôi sâu hơn về vấn đề này, tôi đây sẵn lòng đưa ra thêm ty tỷ những lý do khác như một cuốn lý thuyết dài cả nghìn chương với nhan đề: vì sao những em bé chẳng tuyệt vời đến thế, để phản bác lại họ. Nhưng rõ ràng là dù có cố phủ nhận đến đâu, tôi vẫn phải thừa nhận ở những em bé có một điều gì đó thu hút đám người lớn ghê gớm và khiến họ phát cuồng vì chúng mà tôi chưa thể nhìn ra được. Và tôi cứ nghĩ mãi rồi lại nghĩ mãi, cố đào ra bằng được cái lý do ấy như chàng Peheimer - nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết dang dở thứ hai mà tôi viết - đào một cái giếng giữa hoang mạc với hy vọng tìm ra mạch nước ngầm, cho thỏa mãn cái tôi cố chấp của chàng. Để rồi khi ánh mắt tôi vô tình chạm vào đôi mắt trong veo của Dalton đang mỉm cười với mình, một cảm giác ấm áp bất thần lan tỏa trong lồng ngực tôi đến lạ.

      “Thằng bé cười với em này!” Tôi mừng rỡ reo lên khoe với mọi người, như thể tôi là người đã làm thằng bé cười và chiến công của thành tích kỳ diệu ấy thuộc về tôi. “Thật đấy, thằng bé đang cười với em.”

      Tom đứng ở gần đó rướn tới chỗ tôi. “Đâu?” Anh hỏi, rồi nhanh chóng trở nên phấn khích không thua kém gì tôi trước nụ cười của Dalton. Một nụ cười mới tinh. “Ừ, đúng là thằng bé đang cười với em ấy thật, mọi người ạ.”

       “Cái này mới đấy,” tôi nói, cười toe với con. “Em cứ tưởng em bé mới sinh chỉ biết ngủ, gây phiền toái, và đòi ti mẹ thôi chứ.”

      “Cái đó đâu có sai, nhưng em lại quên không nhắc đến điều quan trọng nhất rồi.” Jane nói, như một vị luật sư bênh vực cho những em bé, những người chưa có đủ năng lực để bào chữa cho chính mình.

        Tôi ngước lên, hỏi chị. “Và nó là gì?”

      “Niềm vui và sự thỏa mãn mà một đứa trẻ mang lại.” chị trả lời, nhưng không nhìn tôi mà nhìn Dalton với đôi mắt cùng chất giọng ngọt ngào nhất của chị.

         Niềm vui và sự thỏa mãn ư?


0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout