Tôi và Tom giết thời gian bằng một bữa điểm tâm tại quán cà phê đối diện văn phòng làm việc của Sally, trong lúc đợi tới cuộc hẹn quan trọng với cô nàng vào lúc chín giờ. Hai chiếc bánh croa-xăng[1] và một tách americano là đủ để giúp tôi có một cái bụng no căng đến giữa trưa và một cái đầu tỉnh táo sau cả đêm gần như không ngủ.
Ngoài trời dần hửng cơn nắng nhẹ. Hai chúng tôi nhâm nhi cà phê cùng ngắm nhìn dòng xe cộ qua lại với một tâm trạng ngày càng trở nên sốt ruột thì rốt cuộc cũng đến chín giờ. Rời khỏi Sunset Cafe cùng quyết định sẽ để xe tại bãi đậu của quán, chúng tôi đi bộ sang phía ngôi nhà hai tầng bên kia đường. Văn phòng đại diện của Trung tâm hỗ trợ nhận con nuôi Số phận Gia đình[2] có vẻ bề ngoài trông giống như một cơ sở tư nhân. Một ngôi nhà kiểu Mỹ điển hình được xây dựng theo lối kiến trúc craftsman[3] với đầy đủ sân vườn.
Bước qua tấm biển hiệu vuông dựng cạnh lối đi dẫn tới hiên nhà lát xi-măng, sự bận rộn từ phía trung tâm phần nào cho tôi cảm giác yên tâm mình đã tìm đến đúng chỗ. Có một cặp vợ chồng trạc tuổi chúng tôi đang được tiếp đón nồng hậu bởi người phụ nữ trong bộ đồng phục trắng với logo của trung tâm thêu trên ngực trái, và ngoài phía bãi đậu xe, là một đôi vợ chồng khác đang hồ hởi bước về phía họ.
“Có vẻ như hai đứa mình là cặp phụ-huynh-tương-lai đồng tính duy nhất ở đây,” tôi nói.
“Em đang hồi hộp à?”
“Còn anh thì không chắc?”
Tom nhe răng nhưng không cười. “Tất nhiên là có chứ. Vậy nên anh mới nắm chặt tay em thế này.”
Chúng tôi kiên nhẫn đợi cô nàng nhân viên trung tâm và người vợ trẻ cười xong câu nói đùa nhạt thếch của ông chồng về chuyện “Con cá sẽ nói gì nếu nó bơi đâm đầu vào một bờ tường?” Câu trả lời là: “Cái đập nước!”[4], rồi mới tiếp cận cô. Cô nàng chủ động nở nụ cười và đưa tay ra cho chúng tôi bắt, giới thiệu mình tên Natalie, rồi sau một vài lời hỏi han lẫn trao đổi thông tin, chúng tôi được cô chỉ tận tình nơi làm việc của Sally nằm trên tầng hai, tại căn phòng cuối hành lang bên gác trái.
Sự bận rộn của trung tâm nhận con nuôi Số phận Gia đình nghe rõ hơn khi chúng tôi đến gần cánh cửa để mở. Nhưng ngạc nhiên thôi là chưa đủ, vì bên trong ngôi nhà lúc này không chỉ hai, mà có những năm cặp đôi khác (tính cả chúng tôi là sáu) đang đợi tới lượt được tư vấn. Họ đang ngồi trên những cặp ghế bành bọc vải nhung và được một cô nàng nhân viên trung tâm khác tiếp đãi chu đáo bằng những tách trà nóng. Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, tôi đã lầm tưởng rằng mình vừa đi lạc vào sảnh chờ của một khách sạn sang trọng.
“Xin chào, tôi là Tina. Liệu tôi có thể giúp gì được cho hai người?” Một cô nàng nhân viên lễ tân cầm tấm bìa kẹp tài liệu xanh (cũng trong bộ đồng phục trắng) tiếp cận chúng tôi.
Lạy Chúa, tay chủ trung tâm này giàu tới mức nào mà hắn thuê quá nhiều lễ tân như vậy? Một cô đứng tại đầu cửa ra vào, một cô chuyên đi rót trà, một cô lượn lờ qua lại hỏi han khách hàng, và một cô ngồi tại bàn máy tính. Hỡi ôi những tới bốn người, tôi thầm nghĩ. “Vâng, xin cảm ơn và xin chào quý cô. Chúng tôi có một cuộc hẹn với Sally Maine vào lúc chín giờ.” Tôi lại trình bày mục đích mà chúng tôi đến đây.
“Ồ, té ra là hai người,” cô nàng tỏ ra hoan nghênh, biểu cảm mừng rỡ có phần hơi thái quá. “Sáng nay Sally đích thân dặn dò tôi rằng cô ấy có hẹn với những vị khách đặc biệt. Cô ấy đang đợi hai người xuất hiện.”
“Ôi, vậy thì tuyệt quá. Tôi đoán là phòng làm việc của Sally vẫn nằm trên tầng hai, tại căn phòng cuối hành lang bên gác trái, phải không cô?” Tôi đùa cợt.
Cô nàng tủm tỉm cười, và gật đầu.
Tôi và Tom tạm biệt Tina rồi hướng lên tầng hai. Việc thiếu ánh sáng tự nhiên cộng thêm các bức tường dán giấy sẫm màu khiến toàn bộ hành lang tầng hai trông có vẻ tối và phải bật điện liên tục. Khi chúng tôi tiến thêm vài bước về phía hành lang trái, chúng tôi bắt gặp một cặp vợ chồng cùng người tư vấn viên vừa thoát ra khỏi phòng làm việc của cô với vẻ mặt hài lòng. Cặp đôi thứ bảy, tôi thầm nghĩ, và có cảm giác dường như cả thế giới đang đổ xô đi nhận con nuôi vậy.
Chúng tôi được Sally mời vào phòng ngay sau tiếng gõ cửa thứ nhất. Đây là lần đầu tiên tôi và cô nàng chính thức gặp gỡ ngoài đời sau nhiều tháng liên lạc qua điện thoại và mạng xã hội. Và dù đã thấy ngoại hình của Sally từ những tấm ảnh cô đăng tải trên facebook, tôi vẫn bị cô làm cho ấn tượng bởi vẻ ngoài năng động đời thường của mình. Sally có dáng người đầy đặn, cùng mái tóc bện thừng[5] chẻ ngôi nhuộm đỏ đầy kiểu cách và đeo khuyên mũi. Cô chào đón chúng tôi bằng những lời bày tỏ niềm vui.
“Trông cậu ngầu quá, Sally,” tôi khen ngợi cô.
“Cảm ơn cậu,” cô nói, luồn nhẹ năm ngón tay qua những bím tóc đỏ một cách đầy tự hào. “Mình vừa mới “tậu” cô nàng ngày hôm qua đấy.” Rồi, cô quay sang Tom. “Và quý ông điển trai này hẳn phải là Tom.” Hai người bắt tay và chào hỏi nhau. “Chẳng trách Nick cố gắng giấu nhẹm anh kỹ một cách quá thể.”
Tom hơi đỏ mặt vì lời khen, cười tươi. Cùng là lần đầu tiên chính thức gặp gỡ, nhưng tôi và Sally đã biết mặt nhau từ trước thông qua những cuộc gọi facetime, còn Tom thì chưa từng một lần tham gia vào những cuộc trò chuyện ấy vì chúng thường diễn ra vào lúc anh đi làm. Mà thực tế chẳng phải là tôi cố tình giấu anh, chỉ là anh không sử dụng bất kể một mạng xã hội nào, còn tôi thì chẳng bao giờ đăng ảnh đời sống cá nhân của chúng tôi lên mấy chỗ đó, ngoại trừ những bức ảnh về khu vườn và con Hạt Đậu.
Sally mời chúng tôi ngồi xuống ghế phía bên kia bàn làm việc của cô, và nói, “Thế nào rồi, những-vị-phụ-huynh-tương-lai yêu thích của tớ? Phấn khích? Lo lắng? Hay thứ này một tí thứ kia một tẹo?”
“Tớ nghĩ lúc này cậu có nhận thức về điều đó còn rõ hơn cả chính bọn tớ,” tôi đáp.
Cô nàng cười. “Ai cũng có lúc lo lắng, nhất là trong trường hợp thế này, các cậu không phải ngoại lệ duy nhất đâu. Nhưng lo lắng là điều tốt, bởi nó cho thấy các cậu đã thực sự sẵn sàng vì suy cho cùng, đó là một trong những công việc chính của những bậc làm cha mẹ mà, tớ nói phải không?”
Cả ba dành ra một phút để nhìn nhau cười khúc khích, và Sally tiếp tục, “Được rồi, như tớ đã thông báo với cậu hai hôm trước, Nick: đã có một cơ sở nhận con nuôi chấp nhận bộ hồ sơ của các cậu; và bật mí nhỏ nhé, dựa trên phản hồi mà tớ nhận được thì họ khá yêu thích các cậu đấy. Nhưng tớ vẫn phải nhắc lại với hai cậu chuyện này, rằng chúng ta không có mặt ở đây hôm nay để đón đứa trẻ yêu quý của hai cậu về với gia đình, bởi đó là một quá trình dài khác đòi hỏi rất nhiều công việc cần được xử lý, trước khi ta có thể biến điều kỳ diệu đó thành hiện thực. Các cậu hiểu rồi chứ?”
“Chúng tớ hiểu,” tôi nói, cảm thấy cần một cái nắm tay. Và Tom nắm lấy tay tôi.
“Nhưng đừng vội cất đi niềm hy vọng, bởi lát nữa tớ sẽ đưa hai cậu tới thăm cơ sở nhận con nuôi đó - nó có tên Mái ấm mới, một địa điểm nằm tại phía tây bắc bên kia thành phố, cách đây khoảng chừng hai mươi phút chạy xe. Và hai cậu biết điều đó có nghĩa là gì phải không? Hai cậu có thể sẽ có cuộc gặp gỡ đầu tiên với bé yêu tương lai của các cậu đấy.”
Tôi và Tom hạnh phúc nhìn nhau. Cái nắm tay của chúng tôi xiết chặt hơn bao giờ hết.
Cơ sở nhận con nuôi Mái ấm mới nằm bên cạnh trục đường chính có tên Fury’s Ferry. Tom chủ động giảm ga, đánh lái theo sau xe của Sally khi thấy cô bật xi-nhan trái và rẽ vào con đường hướng tới một ngôi nhà màu đỏ cam. Để vào bên trong bãi đậu, chúng tôi buộc phải lái xe vòng qua cổng xoát vé tự động bằng một lối đi phụ bên hông ngôi nhà vì dường như cái máy đã không còn được sử dụng từ lâu. Nhìn bề ngoài, cơ sở nhận con nuôi Mái ấm mới trông giống như một nhà nguyện truyền thống vùng ngoại ô với những bức tường gạch màu đỏ cam và các ô cửa màu trắng, cùng một ngọn tháp xây trên đỉnh mái nhà cũng có màu trắng nốt.
Niềm phấn khích trong tôi chợt vơi đi phần nào khi vừa bước xuống xe và cảm nhận được bầu không khí hiu quạnh của nơi đây. Nó dường như không thuộc về một thành phố lớn bởi sự im ắng vì thiếu tiếng động cơ ồn ã của những dòng xe cộ, nhưng lại không tạo ra cảm giác yên bình của những chốn thôn quê.
Vừa thoát ra từ chỗ cửa ra vào là một người đàn ông có dáng người mảnh khảnh tiến đến chỗ chúng tôi. Con người anh ta toát lên một vẻ ngoài tri thức nhờ cặp kính chữ nhật và bộ trang phục chỉnh tề với quần âu kết hợp cùng sơ mi trắng. Anh ta tay bắt mặt mừng với Sally, chào hỏi nhau một vài câu xã giao, rồi cô nàng quay sang giới thiệu chúng tôi với anh.
“… Còn đây là cặp phụ-huynh-tương-lai tôi đã nhắc đến trong cuộc điện thoại của chúng ta ngày hôm qua.”
Người đàn ông vui vẻ đưa tay về phía chúng tôi. “Xin chào hai vị, tôi là Luther. Và hãy cho phép tôi được nhiều lời một chút, hai vị đã tìm đến đúng địa chỉ đáng tin cậy rồi đấy, bởi cơ sở của chúng tôi vốn nổi tiếng là một nơi thân thiện với những cặp phụ huynh thuộc cộng đồng LGBTQ+.”
Chúng tôi lần lượt đón nhận cái bắt tay của anh ta. Và Tom nói, “Cảm ơn anh, Luther. Điều đó nghe thật tuyệt vời làm sao.”
“Đi nào. Hãy để tôi đưa các vị tham quan một vòng.”
Ba người chúng tôi theo chân Luther vào bên trong ngôi nhà theo lời mời gọi của anh chàng. Và tôi tin rằng mình đã thầm tạ ơn Chúa vì bầu không khí bên trong ngôi nhà mang lại một cảm giác an toàn và thân thiện hơn hẳn sự im ắng rợn rờn ngoài bãi đậu. Nơi đây trông giống như một nhà trẻ mẫu giáo với rất nhiều những bức tranh sáng tạo của lũ trẻ được đóng khung treo trên tường. Tôi tò mò ngó đầu vào một căn phòng nhỏ tình cờ thay lại là lớp học của lũ trẻ và bắt gặp những ánh mắt non nớt đáp lại sự hiếu kỳ của tôi bằng những nụ cười đáng yêu hết sức.
“Lũ trẻ đang được làm quen với nghệ thuật gấp giấy Origami[6] trong giờ học giao lưu văn hoá,” Luther cất tiếng.
Tôi xoay lưng lại chỗ anh ta. “Thật tuyệt vời khi các anh cung cấp luôn chế độ giáo dục cho lũ trẻ như vậy.”
“Điều đó là tất nhiên. Tại Mái ấm mới, chúng tôi tin rằng giáo dục là cách tốt nhất để tạo ra một tương lai tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người. Đặc biệt là cho những đứa trẻ.”
“Không chỉ có trẻ nhỏ, phía bên họ còn hỗ trợ cả những trẻ vị thành niên kém may mắn nữa,” Sally nói.
“Ồ, cô Sally, mong cô lưu ý cho. Chúng tôi không sử dụng những cụm từ đại loại như “bất hạnh”, hay “kém may mắn” ở đây.”
Sally đưa tay lên che miệng, tỏ vẻ hối lỗi. “Ôi, tôi thành thật xin lỗi. Tôi đáng nhẽ phải biết rõ về điều đó trên tất thảy mới phải.”
“Không có gì đâu, thưa cô. Đó rõ ràng là một sai lầm chân thành.” Anh ta trấn an Sally, rồi nhìn nhanh qua chỗ tôi và Tom. “Và vâng, tại đây chúng tôi có hỗ trợ cả những trẻ vị thành niên - độ tuổi đáng sợ nhất với hầu hết những cặp đôi đang có mong muốn nhận con nuôi,” anh ta gượng cười. “Nhưng nếu các vị cho chúng cơ hội để làm quen và tìm hiểu về chúng, các vị sẽ nhận ra chúng không thật sự đáng sợ đến thế. Ý tôi là, tất cả chúng đều đã từng là những đứa trẻ tuổi teen hết mà, phải không?”
Tôi cảm thấy không cười nổi với câu nói đùa của Luther, liền hỏi, “Thế chuyện gì sẽ xảy ra với những đứa trẻ vào năm chúng lên mười tám?”
“Tôi biết nỗi lo của anh, Nick. Nhưng thực tế là sẽ không có một điều gì tồi tệ xảy ra với những đứa trẻ vào năm chúng lên mười tám cả. Bởi đó sẽ là thời điểm cuộc đời của chúng chính thức bắt đầu,” anh ta đáp. “Dù tin hay không, thì sự thật là những đứa trẻ biết nhiều hơn những gì đám người lớn chúng ta lầm tưởng về chúng rất nhiều. Ngay từ bây giờ, khi còn là những đứa trẻ vị thành niên, chúng hầu hết đã tự nhận thức được định mệnh của mình và bắt đầu lên kế hoạch xây dựng một cuộc sống lý tưởng của riêng chúng. Và tham gia vào một trường Đại học sẽ là bước đầu để chúng hiện thực hoá kế hoạch đó.”
“Thật tuyệt vời khi được biết điều đó, Luther. Lũ trẻ thật sự nghị lực quá,” Tom nói.
Luther cười tươi rói. “Vâng. Và xin cho phép tôi được khoe khoang thêm một chút. Các vị sẽ biết cơ sở của chúng tôi là một cơ sở tốt, khi các vị nhận ra trong suốt bốn mươi năm lịch sử hoạt động của Mái ấm mới, có rất nhiều những đứa trẻ xuất thân từ cơ sở chúng tôi sau này dù đã trở thành những người có địa vị trong xã hội hoặc đã lập gia đình, họ vẫn tìm về với chúng tôi và đưa ra những khoản đóng góp không nhỏ để giúp đỡ sự duy trì và hoạt động của cơ sở, như gửi gắm một lời cảm ơn tới cội nguồn của họ vậy.” Ánh mắt của anh ta hướng về phía phòng học của lũ trẻ. “Ví dụ như cá nhân tôi đây, tôi đã từng là một trong số những đứa trẻ ngồi trong phòng học ấy đấy.”
Gương mặt của Luther loáng lên một nét tự hào khi thấy chúng tôi trao cho anh ta ánh mắt ngạc nhiên xen lẫn chút khâm phục. Và rồi anh ta quay lại với chuyến tham quan Mái ấm mới bằng cách giới thiệu với chúng tôi về những căn phòng khác, “Ở bên phía bên tay phải các vị là phòng sinh hoạt chung, nơi những đứa trẻ sẽ dùng bữa và xem chương các trình truyền hình…”
Giọng điệu đậm chất thuyết trình của Luther về lịch sử của Mái ấm mới đi xuyên qua tâm trí tôi như một cái bóng mờ nhạt, rồi bất chợt trở nên đặc biệt rõ ràng khi chúng tôi sải bước qua bốn phòng ngủ trống người đối diện nhau trên một hành lang dài, nơi có những chiếc giường tầng xinh xắn và mỗi căn phòng được sơn và trang trí theo một chủ đề khác nhau.
“Hãy thứ lỗi cho bản tính tò mò của tôi, Luther. Liệu cơ sở các anh đang hỗ trợ tổng cộng bao nhiêu trẻ em vậy?”
“Ồ, đừng ngần ngại đặt ra bất kỳ câu hỏi nào nếu các vị cảm thấy thắc mắc, bởi đó là cách tốt nhất để đôi bên chúng ta hiểu về nhau nhiều hơn,” anh ta đáp. “Và để trả lời câu hỏi của anh, Nick. Chúng tôi hiện đang hỗ trợ hơn một trăm trẻ em mồ côi trên khắp các cơ sở của Mái ấm mới trong lãnh thổ Hoa Kỳ; và mười lăm trẻ, chỉ tính riêng cơ sở tại Augusta mà chúng ta hiện đang tham quan.”
“Chà, chăm sóc cho mười lăm đứa trẻ. Đó hẳn là một khối lượng công việc khổng lồ mà bọn anh cần phải xử lý mỗi ngày.”
“Anh nói đúng, Tom. Chúng tôi có những vất vả của riêng mình nhưng mọi người đều nỗ lực hoàn thành công việc một cách trọn vẹn nhất, vì nó thực sự xứng đáng để đánh đổi. Ý tôi là, hãy nhìn vào nụ cười trên gương mặt của những đứa trẻ mà xem, còn phần thưởng nào quý giá hơn thế nữa. Tôi nói đúng chứ?”
Đi thêm một đoạn thì bốn người chúng tôi dừng chân trước một cánh cửa đóng kín gần cuối hành lang, nơi Luther giới thiệu là văn phòng làm việc của anh ta. Tom và Sally bước vào văn phòng cùng lúc với Luther, trong khi tôi cố nán lại nơi hành lang để quan sát mọi thứ bên trong ngôi nhà thêm một chút. Cơ sở vật chất của Mái ấm mới quả thật không có gì đáng bàn cãi nếu không muốn nói là quá tốt. Họ có một lớp học riêng dành cho trẻ mẫu giáo. Một phòng sinh hoạt với chiếc tivi màn hình phẳng hiện đại và những kệ tủ lấp đầy sách không khác nào một thư viện cỡ nhỏ. Bốn phòng ngủ, nơi có những chiếc giường tầng nằm trong một không gian tràn ánh nắng. Và cuối cùng là một người một người quản lý tốt bụng biết quan tâm tới lũ trẻ. Họ còn điều gì để chê trách đâu cơ chứ? Ấy thế sao tôi cứ cảm thấy bụng mình nhộn nhạo đầy lạ lùng theo một hướng chẳng mấy tích cực. Có chăng là do những thước phim ảnh từ thưở xa xưa đã ăn sâu vào tư tưởng của tôi, luôn phác hoạ hình ảnh về những trại mồ côi là một nơi tồi tàn với điều kiện sống nghèo nàn khắc khổ, đã khiến tôi có định kiến với họ?
Giữa lúc đang mải mê suy ngẫm, một giọng nói ngại ngùng bỗng vang lên bên dưới tôi. “Chú tới đây để đưa cháu đi cùng với anh Timmy ạ?”
Đó là một cậu bé có mái tóc nâu xoăn tít. Tôi ngỡ ngàng ngắm nhìn hình dáng bé nhỏ của cậu nhóc trong giây lát, rồi sau đó co gối ngồi xuống trước mặt con. “Bé con, cháu vừa bảo điều gì cơ?”
“Anh Timmy của cháu,” cậu bé đáp. “Người ta đã đón anh ấy đi vào tháng trước và anh ấy hứa rằng sẽ có người tới đón cháu theo anh ấy. Cháu cứ tưởng rằng anh ấy đã quên mất cháu vậy mà thật may quá, chú đã ở đây rồi.”
Những câu từ ngây thơ đầy ắp sự hy vọng của cậu bé khiến tôi cảm thấy thật kinh khủng khi phải nói ra điều này với con. “Xin lỗi cháu, bé con. Nhưng chú không tới đây để đón cháu đến chỗ anh Timmy của cháu.”
Biểu cảm gương mặt của cậu bé như muốn nói với tôi đây không phải là lần đầu tiên con trải qua chuyện này. Hai hàng mi của con khẽ rủ xuống một vẻ buồn rượi. “Vâng, cháu hiểu rồi ạ.”
Tôi gần như lo lắng cậu bé sẽ thất vọng với câu trả lời của tôi mà bỏ đi, mặc dù chẳng có dấu hiệu nào cho thấy con có ý định làm thế, liền hỏi. “Bé con, cháu có thể cho chú biết tên không?”
Cậu bé ngước lên để nhìn vào mắt tôi. “Tên cháu là Aiden ạ. Thế còn tên chú là gì?”
“Cháu có cái tên hay quá, Aiden. Còn chú là Nick.”
Đầu Aiden khẽ nghiêng về một phía lúc con nghĩ ngợi. “Nick là tên viết tắt của Nicholas, phải không ạ?”
Tôi cười. “Ối chà, cháu giỏi quá, Aiden. Đúng vậy, Nick là tên viết tắt của Nicholas.”
Cậu bé giơ ba ngón tay nhỏ xíu lên trước mắt tôi với vẻ mặt đầy tự hào. “Thì cháu lớn những bốn tuổi rồi mà.”
Giờ thì tôi bật cười thành tiếng. “Chú nghĩ như này mới là bốn cơ, bé con ạ,” tôi nói, rồi chỉ cho con cách đếm tới bốn bằng những ngón tay của mình. “Một. Hai. Ba. Bốn này.”
Cậu nhóc chu mỏ lên, hai con mắt tròn xoe nhìn ba ngón tay xinh xắn trên bàn tay trái nhỏ xíu của mình như thể đấy là một sai lầm nằm ngoài sức tưởng tượng của con. Nhe răng cười. “Cảm ơn chú ạ. Sai lầm tai hại quá. Cháu thực tế đã có thể đếm được tới hai mươi rồi cơ, nhưng những ngón tay của cháu thỉnh thoảng lại tự khiến mình bị bối rối.”
“Điều đó chẳng sao cả, bé con ạ. Bởi cái đầu của chú thi thoảng cũng tự khiến mình bối rối suốt. Giả dụ như sáng nay, chú chẳng nhớ là mình đã ăn sáng trước khi rời nhà hay chưa, thế là chú lại đánh chén thêm một bữa ra trò khác với cái bụng no căng.”
Con nở một nụ cười e thẹn. “Cháu thi thoảng cũng làm thế mỗi dịp cô Eva cho chúng cháu ăn bánh sandwich phô mai kem kẹp dâu tây.”
“Hai chú cháu mình hợp ý nhau quá,” tôi vui vẻ nói. Rồi tôi chuyển sự chú ý đến vật trong tay của Aiden. Đó là một quả bóng nhỏ xíu in hình thù nhân vật chú chó Scooby-Doo[7]. “Cháu có quả bóng đẹp quá. Cho phép chú ngắm qua nó được không?”
“Tất nhiên là được chứ ạ.” Cậu bé nhanh nhẹn chìa quả bóng về phía tôi. “Nhưng quả bóng này vốn không phải của cháu, mà nó thuộc về anh Timmy. Anh ấy yêu quả bóng này nhiều lắm; nó là thứ duy nhất ở bên cạnh Timmy khi anh ấy bị lạc mẹ tại một lễ hội nọ. Đó đáng nhẽ phải là một ngày vui, bởi hai mẹ con họ đã đi một quãng đường dài rất dài để tham dự lễ hội ấy.”
Tôi cố ngăn mình không được nghĩ tới một kịch bản đen tối nào đó đằng sau câu chuyện Timmy lạc mẹ. “Hẳn Timmy phải yêu quý cháu lắm nên cậu bé mới để lại cho cháu một vật quan trọng như vậy.”
“Cháu cũng yêu quý anh ấy lắm ạ,” cậu bé nói, hai mắt tập trung vào quả bóng tròn trong tay. “Timmy đã đưa nó cho cháu trước khi được người ta tới đón đi. Anh ấy còn dặn dò là cháu phải biết chơi chuyền bóng hoặc một môn thể thao nào đấy thì cơ hội được ai đó lựa chọn sẽ cao hơn, bởi người ta thường thích những đứa trẻ năng động hơn là những đứa chỉ biết ngồi một chỗ ủ rột cả ngày. Giống như cháu đây - dựa theo lời của anh Timmy. Mặc dù cháu chẳng biết họ sẽ lựa chọn cháu cho việc gì, và bản thân cháu cũng chơi chuyền bóng tệ lắm.”
Tôi xoa đầu con. “Ái chà, chú cháu ta lại giống nhau nữa rồi. Nhưng cháu đừng quá lo lắng, Aiden ạ. Bởi chính vì có những kẻ vụng về như hai chú cháu mình đây, thế giới này mới trở thành một nơi thú vị như bây giờ đấy. Cháu hãy tượng tưởng về một thế giới mà ở đó toàn những tay chuyền bóng giỏi thử xem, nếu là thế thì chẳng phải ngay cả tài năng tuyệt vời đó cũng bị biến thành một điều bình thường mất rồi còn gì. Chú nói phải không?”
Cậu nhóc cười khúc khích. “Chú vui tính thật đấy.”
“Cảm ơn lời khen ngợi tốt đẹp của cháu, Aiden. Nhưng nó cũng chẳng hại gì khi ta trau dồi thêm một số kỹ năng, nhỉ?”
Con vẫn cười khúc khích, và gật đầu.
“Vậy hai chú cháu mình giúp đỡ nhau tập luyện nhé.”
Và con truyền bóng cho tôi.
[1] Nguyên văn: Croissant.
[2] Nguyên văn: Fate Family.
[3] Một kiến trúc địa phương của Hoa Kỳ bắt đầu từ thế kỷ 19.
[4] Nguyên văn: Dam. Một cách chơi chữ, dựa theo sự đồng âm của từ damn - chết tiệt, và dam - cái đập nước.
[5] Nguyên văn: Dreadlock
[6] Là một loại nghệ thuật gấp giấy có xuất xứ từ Nhật Bản.
[7] Nhân vật hoạt hình nổi tiếng trong bộ phim hoạt hình dài tập cùng tên.
Bình luận
Chưa có bình luận