Trên biển cát mênh mông trải dài tận chân trời, những cồn cát khổng lồ nhấp nhô như sóng biển đông cứng dưới cái nắng cháy gắt.
Từng đợt gió nóng quét qua, thổi tung lớp bụi mịn thành những làn khối vàng lửng lơ, trông như hồn ma lang thang giữa trần thế.
Đoàn xe thiết giáp bò chậm chạp trên những sườn cát dốc đứng, bánh xe to như cối xay rít lên, để lại vệt xẻ sâu uốn lượn kéo dài hàng chục mét.
Từ xa, nhìn chúng tựa những con bọ thép đang cố bấu víu leo lên mặt cát nóng như than hồng, mỗi cú giật rung khiến lớp giáp rít lên, ánh thép mờ mờ như sắp vỡ ra bất cứ lúc nào.
Ở tận cùng đường chân trời, Mạc Sa Lĩnh sừng sững hiện lên, đen sì và lởm chởm như gai lưng của một con mãng xà cổ đại, nhuộm phần ánh nắng thành màu đồng xỉn, phần còn lại chìm trong bóng tối sâu hun hút.
Những đỉnh đá dựng đứng, nhọn hoắt, đâm thẳng lên bầu trời tím nhạt đang bị ánh nắng nung đỏ dần, khiến cả dãy núi trông như một bức tượng tàn bạo được chạm khắc từ tro tàn và máu khô.
Cơn gió khô rát tràn qua mặt, cuốn theo vị mặn chát của cát sa mạc và mùi sắt han gỉ khó tả, như mùi bốc ra từ một nghĩa địa vùi sâu dưới cát.
Ở chính giữa dãy núi, một khe nứt khổng lồ ngoằn ngoèo mở ra, hệt một vết sẹo dài bị xé rách bởi lưỡi dao của thần chết.
Đó là Tàng Long Hạp – con đường độc đạo ngắn nhất xuyên qua Mạc Sa Lĩnh để vào các khu định cư phía tây, nhưng đồng thời cũng là cái bẫy chết chóc nhất. Nơi mà bao nhiêu thương đoàn, các nhóm lữ hành đều xem nó là “cổng địa ngục”.
Nhìn từ xa, Tàng Long Hạp như một chiếc miệng tối đen, há ngoác chò đợi những kẻ ngu ngốc tự dâng mình lên, nuốt trọn rồi nghiền nát trong yên lặng.
Người ta đồn rằng, bên trong khe núi ấy, có thể nghe thấy tiếng rên khóc của linh hồn bị kẹt lại, những tiếng thét kéo dài suốt hàng thế kỷ.
Trong khoang xe, ai nấy lặng ngắt. Những người ngồi trong nhìn qua khe cửa sổ thép, đều dấy lên cảm giác bất an khó nói thành lời.
Lôi Vũ dựa người vào ghế, mắt khép hờ, nhưng hơi thở chậm và đều, bàn tay nắm vô lăng khẽ siết đến trắng bệch khớp. Búng điếu thuốc tàn ra bên ngoài, gió nóng thổi tàn lửa lượn lờ rồi vụt tắt giữa không trung, nhếch mép:
“Thấy chưa… cái ổ quỷ này nhìn từ xa còn đẹp chán. Lát vào gần rồi biết thế nào là địa ngục.”
Lạc Minh trông Galvin xoay xoay khớp vai, hỏi: “Vết thương cậu sao rồi?”
Galvin vỗ vỗ bắp tay, gồng lên cười khẩy: “Tôi đâu phải tên yếu đuối, một hai ngày đã không còn đau nữa. Đấm nhau một trận ra trò được rồi!”
Nói rồi lại nhăn mặt, bóp chặt nắm tay, không can tâm: “Cái tên bự con khó ưa đó, hừ… rồi sẽ có ngày tôi sẽ quay lại, hạ đo ván gã, cho hắn biết ai mới thực sự là kẻ khỏe nhất Tây Vực này.”
Lôi Vũ móc từ túi áo ra nửa điếu thuốc cuối, đưa lên miệng châm, khói thuốc xám bay lượn lên trần, lượn một vòng như con rắn rồi tan biến vào khe lọc khí:
“Dành chút sức đó vào Tàng Long Hạp thể hiện đi! Mọi người… chúng ta tới lối vào rồi!”
Ngay từ lối vào, những trụ xương khổng lồ dựng xiêu vẹo, lồng vào nhau như bầy rắn lớn đang quấn chặt, ở đầu mỗi trụ cắm một cái đầu lâu nứt nẻ, hốc mắt đen kịt, lặng lẽ nhìn xuống như những phán quan khát máu. Tấm vải rách phủ cát treo lủng lẳng, dính những vệt đỏ sẫm, nửa như máu khô, nửa như thứ ám ảnh mơ hồ của nạn nhân.
Một con chim sắt gãy cánh – biểu tượng của một thương đoàn đã mất tích mấy năm trước – bị treo ngang lối vào, như lời nhắc nhở đẫm máu rằng: Kẻ yếu sẽ bị nuốt chửng, kẻ khôn ngoan mới có cơ may rời đi.
Không khí trở nên nặng nề, nặng hơn cả bầu trời nung nấu ngoài kia. Những giọt mồ hôi chảy dài từ thái dương xuống cổ áo, dù bên trong xe đã mở điều hòa lọc khí nóng.
Đoàn xe vẫn chậm rãi bò qua cồn cát, từng chiếc bánh lún sâu rồi nhô lên. Càng đến gần, khe núi càng mở rộng ra trước mắt, hệt một con rồng xám đang há miệng chờ bữa tiệc thịt người.
Ánh nắng ban ngày đổ thẳng xuống khe đá hẹp, luồn qua những kẻ nứt, chiếu lên cát thành hàng vệt sáng dài như lưỡi dao bén, đâm xiên vào mặt đường.
Chiếc xe hộ tống chạy lên đầu tiên chậm rãi dò đường, rồi xe của đám Lạc Minh nằm giữa, phía sau cùng là chiếc xe hộ tống còn lại.
Một tên bịt khăn mặt ngoi lên từ xe trước, hét to với những chiếc xe sau lưng: “Sắp vào Tàng Long Hạp!! Đóng phản lực phụ! Tắt radar định vị!”
Cả đoàn đồng loạt làm theo như một luật bất thành văn khi tiến vào Tàng Long Hạp. Tất cả chìm vào vùng bóng tối lờ mờ, chỉ còn tiếng bánh xe nghiến trên cát vụn và hơi thở nặng nề của những kẻ bên trong.
Galvin lúc này chồm lên ghế lái, giật lấy nửa điếu thuốc hút dở từ miệng Lôi Vũ, rít một hơi cay, khẽ liếc sang Lạc Minh:
“Đại ca, có thật cái chỗ này từng là vùng săn rồng không? Ha, sao lại gọi là Tàng Long Hạp? Thế giới này từng có rồng à?”
Lạc Minh dựa lưng vào ghế, mắt híp lại như con sói đang ngửi mùi máu, giọng khàn đục chậm rãi:
“Rồng thật thì chưa ai từng thấy… Nhưng cái tên này, không phải đặt chơi đâu. Ngày trước, trước cả thời loạn Hexal, nghe nói vùng này từng có một vương tộc du mục bản địa gọi là Sa Linh Tộc. Người ta đồn họ thờ phụng một sinh vật cổ xưa sống sâu dưới Mạc Sa Lĩnh… Một con quái thú mà cả trăm đời họ gọi là Sa Thực Giả.”
“Zahar?” Dạ Lăng rùng mình, ôm chặt khẩu súng trường, hỏi nhỏ.
“Hửm? Rất lâu rồi chưa có ai nhắc đến cái tên đó. Cô cũng biết về nó sao?” Lạc Minh nhíu mày ngạc nhiên.
“Ừm. Hơn nửa năm trước, trong một lần nghiên cứu di tích cổ ngoài sa mạc. Tôi cùng đội khảo cổ đã tìm thấy những bia văn tự cổ… đại khái nói về một tộc người sinh sống trong sa mạc rất lâu, đến mức họ tách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Cho đến khi Hexal xuất hiện đã hủy diệt nền văn minh của họ, hiện tại đã trở thành những nhóm người nhỏ - chính là tộc Sa Quỷ. Nền văn minh của họ khá lạc hậu, vẫn còn phụ thuộc hoàn toàn vào đức tin, những bản dịch cho thấy tín ngưỡng của họ gắn chặt với một loại tôn giáo, mà chủ thể chính là vị thần duy nhất mang tên Zahar – được mô tả trông như một con rắn… à không, đúng hơn là một con sâu cát khổng lồ. Nếu những mô tả trong văn tự cổ là đúng, thì nó thực sự đang ngủ yên… sâu bên dưới chúng ta.”
“Đám ngoại lai chúng ta hay gọi nó với một cái tên khác, Phệ Hồn Sa Trùng – Skorath. Dân bản địa gọi nó là Sa Thực Giả - nghĩa là ‘kẻ ăn mọi thứ’. Nó không chỉ ăn thịt xương, mà còn hút cả linh hồn. Đặc điểm rất giống với Thực Linh Thú ngày nay.”
Không gian bên trong xe chợt trở nên đặc quánh, như có hơi lạnh bò dọc sống lưng mọi người.
“Skorath nghe tiếng rung động rất nhạy. Chỉ cần tiếng động lớn hay sóng âm lạ đủ mạnh, nó sẽ thức giấc. Khi đó… cả khe núi này sẽ biến thành bãi săn của nó. Bất kể có là tộc Sa Quỷ, đoàn xe thương buôn hay kẻ thờ phụng chính nó… tất cả đều bị nuốt trọn. Không phân biệt ai là tín đồ, ai là con mồi. Ai cũng chết.”
Bên ngoài, một vài cột đá khắc phù chú kỳ quái trải dọc hai bên khe núi, cứ cách vài chục mét một cái. Bên trên xếp đầy những sọ người to nhỏ treo lủng lẳng, gió thổi xoay xoay phát ra những tiếng lách tách ma quái, tựa tiếng cười khanh khách của oan hồn bị đày đọa.
“Vậy mấy đám Sa Quỷ kia còn dám thờ nó à? Không sợ bị ăn luôn chắc?”
“Đó mới là thứ điên rồ nhất. Với bọn chúng, Skorath là thần. Được nó ăn chính là được ‘giải thoát’, trở thành cát bụi nguyên sơ, hòa vào đại mạc. Bọn Sa Quỷ sẵn sàng hy sinh chính đồng loại, hoặc bất kỳ ai đi lạc, để ‘tế’ con quái đó. Và nghe nói… nếu chúng muốn, có thể ‘hát’ lên một điệu khúc cổ, gọi Sa Thực Giả trồi lên.”
“Điệu khúc cổ? Sao trước đây tôi lại không thấy ghi chép gì về thứ như thế? Tôi nhớ mình chưa từng bỏ sót chi tiết nào…”
“Em gái, cô không nhìn lại xem mình đang nói chuyện với ai?! Anh ta là Thợ Săn kỳ cựu giỏi nhất căn cứ chúng ta đấy. Có chuyện gì mà anh ta chưa từng gặp qua chứ!”
“Một điệu ngâm cổ, chỉ họ mới biết cách ngân. Khi vang lên, từng hạt cát sẽ bắt đầu nhảy múa, mặt cát sẽ rung động lan tận đáy sâu, và…Skorath thức tỉnh.”
Tiếng gió rít qua khe núi, tiếng cờ rách quất vào đá, và nhịp tim đập dồn dập trong ngực từng người.
Càng vào sâu, bóng tối càng đặc quánh như mực, chỉ còn lại hơi thở của thần chết len lỏi trong từng kẽ đá.
Bình luận
Chưa có bình luận