Bà Hậu sống ở căn nhà bên cạnh nhà tôi.
Nói nó là nhà cũng không đúng lắm, vì nó không có địa chỉ, cũ nát, ẩm thấp và cực kì tồi tàn. Căn nhà đó cũng không có điện. Ban ngày bà Hậu mở cửa mời ánh sáng vào nhà, tối đến bà sẽ thắp đèn dầu cho bóng tối đỡ cô đơn. Có hôm tôi còn thấy bà chuyền đóm lửa từ cây đèn dầu sang cây đèn cầy mà bà đã mót được ở đâu đó ngoài đường.
Vào mỗi buổi sáng, bà Hậu đi ra khỏi hẻm, đến khi trời gần đứng bóng thì bà tha về nhà một đống thùng các tông và lỉnh kỉnh mấy chai nhựa hay lon nước ngọt. Công việc này cũng thường xuyên được diễn ra vào mỗi tối muộn, khi dãy quán nhậu phía trước hẻm nhà tôi bắt đầu ngơi khách. Thỉnh thoảng những buổi trưa, bạn sẽ nghe thấy tiếng bà chẻ củi, hoặc có khi là đập nhỏ vài cục than để nấu cơm bằng cái bếp than đen xì lì. Khoảng đầu giờ chiều, bà Hậu sẽ ngồi xếp các thùng các tông cho gọn gàng, phân loại các chai nhựa và lon nước ngọt, để riêng mỗi loại từng bao, rồi sau đó cất chúng vào một góc trong nhà. Khi cái góc nhỏ ấy không còn chứa thêm được nữa thì bà sẽ kêu một cô ve chai tới đem chúng đi. Công việc ấy cứ lặp đi lặp lại mỗi ngày như thế.
Đó là trong những ngày cuộc sống được diễn ra bình thường. Khi xóm tôi bị cách li, bà Hậu không thể đi tha mớ thùng và mớ lon về được nữa. Tuy nhiên, tôi vẫn thấy bà không có vẻ gì lo lắng lắm, nhìn thái độ của bà rất khác so với mọi người trong xóm. Nét hoang mang dường như không hiển hiện trên gương mặt bà. Chắc có lẽ nếu buộc bà ít phải ra ngoài đường hơn cũng sẽ không khiến bà nghèo thêm được!
Nhưng mà có một lần, tôi thấy bà có đôi chút bất an. Đó là khi thành phố chính thức bị phong toả, lúc ấy bà phải đi xin củi những nhà xung quanh. Lúc đầu bà con trong xóm lấy những thứ đồ gỗ họ không dùng nữa đem cho bà để bà chẻ lấy củi. Sau khi các nhà đó không còn gì để cho, bà bắt đầu tận dụng mớ than vụn còn sót lại dưới đáy của bao than và một ít thùng các tông mà bà dành để bán lấy làm chất đốt. Và khi qua giai đoạn đó được một vài hôm, sự lo sợ chiếm chỗ của sự lo lắng, chúng leo lên mặt bà.
Những người cứu trợ ở địa phương luôn có các phương án cứu đói cho người dân vùng tâm dịch. Dù rằng nguồn lương thực đó không dồi dào cũng không phong phú, thường xuyên là mì gói, vài thứ đồ khô và một ít rau củ cơ bản. Thỉnh thoảng cũng có mạnh thường quân góp thêm một chút thịt san sớt với những nhà xung quanh, bao nhiêu đó cũng là quá nhiều so với cuộc sống đơn giản bấy lâu nay của bà Hậu. Nhưng chắc có lẽ người ta quên rằng, con người khác với động vật chúng tôi, loài người không thể ăn thực phẩm sống. Họ cần những đồ ăn đã được nấu chín, vì bao tử của họ đã quen với điều đó. Nhất là trong những hoàn cảnh ngặt nghèo thế này, việc ăn chín uống sôi của loài người vô cùng quan trọng. Nếu con người bị tiêu chảy trong lúc này, họ cần phải tự hết bệnh. Việc mua thuốc dù khó khăn và không thể ngay lập tức, nhưng họ phải tự tìm cách. Tốt nhất là đừng cho tiêu chảy (hay bất cứ thứ bệnh gì có sẵn trong người) trở nặng. Bệnh viện lúc này chỉ ưu tiên những trường hợp nguy cấp có dính líu đến con virus của loài dơi mà thôi.
Và vì quên mất việc cần phải làm chín thức ăn, hoặc các tình nguyện viên hay các chính sách cứu trợ nghĩ rằng việc đó nằm trong khả năng của các cư dân bị phong toả, nên những trường hợp như bà Hậu luôn nằm bên rìa của công cuộc cứu đói. Không bao giờ người ta thấy than được tặng kèm với mì gói, hay củi được cho chung với rau khoai. Ngắn gọn hơn, họ mặc nhiên thức ăn sẽ tự động chín khi tới tay bà. Và thế là lúc nào cũng vậy, bất kì một mong muốn nào của loài người mà nằm ngoài khả năng có được của họ, đau khổ sẽ tự động phát sinh. Trong câu chuyện của bà Hậu, sự đau khổ ấy mang tên “không có chất đốt”.
Và một tình cảnh mà tôi thấy rất mắc cười đã xuất hiện. Những thùng các tông và đống vỏ lon của bà Hậu đã nhường chỗ cho mấy thùng mì, mớ rau thì mặc kệ nỗi buồn cứ xì ra thúi quắc vì bà Hậu không kịp ăn chúng, khoai tây thi nhau mọc mầm và khoai lang cũng dần bắt đầu sượng. Thỉnh thoảng khi bà có một ít thịt, bà còn đem cho ngược lại những nhà đông người thiếu ăn khác, và nhà khác đó cũng tử tế gửi lại bà chút thịt đã được nấu chín. Nhưng sự lại quả này chỉ lâu thật lâu mới diễn ra. Trong cơn ngặt nghèo, người ta ngại phải cưu mang thêm bất kì mảnh đời bất hạnh nào nữa, họ sẽ nghĩ rằng biết đâu sự lại quả đó của họ sẽ tạo cho bà Hậu thói quen, rồi bà cứ mang thực phẩm sống tới đưa cho họ và họ phải có nghĩa vụ nấu chín nó cho bà. Nói một cách khác, bà Hậu ngủ trên cả đống đồ ăn, nhưng bà vẫn đói.
Sự tình có đôi chút khởi sắc khi một hôm, cậu chủ tôi mang đồ ăn qua biếu bà. Đó là một dĩa bột chiên, có trứng, nhiều hành và chén nước tương pha cực kì chất lượng. Bà nói rằng bột chiên là món mà bà thích nhất nhưng đã lâu lắm rồi bà không được ăn, rằng cậu chủ làm món bột chiên rất vừa miệng bà, chỉ là thiếu chút đu đủ bào sợi ngâm chua. Nhưng xét trong bối cảnh này, thì dĩa bột chiên mà bà đang ăn đã là cực phẩm rồi. Rồi bà bắt đầu kể về những khó khăn của bà. Đó cũng là lí do mà tôi biết tất cả mọi chuyện và kể cho các bạn nghe.
Sau lần mời bà dĩa bột chiên đó, cậu chủ của tôi đã tìm cách xin cho bà Hậu một bịch than. Qua ngày hôm sau, bạn của cậu chủ tôi, là một tình nguyện viên tham gia chống dịch nên có điều kiện di chuyển các nơi, đã gửi tặng bà Hậu mười kí than củi. Tôi còn nhớ khi bà nhận bao than củi đó bà đã khóc rất nhiều, thậm chí bà còn chắp tay xá cậu chủ tôi vài cái. Ngày hôm đó bà nói rằng: “Vậy là từ giờ bà không còn phải nhai mì sống và gặm khoai sống nữa rồi!”
Bình luận
Chưa có bình luận