Tôi đã quá mệt mỏi sau một ngày dài. Đói bụng, tìm thức ăn, chiến đấu với con chó ghẻ, bị thương ở đầu và bị bọn người lạ bắt đi. Những điều đó khiến tôi nằm thừ ra, ngoan ngoãn thiếp đi trong cái bao bố đầy mùi của những con chó khác. Cho đến khi tai tôi nghe những tiếng sủa, hay chính xác phải là những tiếng rên rỉ của đồng loại, mắt tôi bắt đầu mở ra và trông thấy những cảnh tượng hãi hùng.
Loài người bịa ra chuyện địa ngục, họ vẽ lên một thế giới tồn tại sau cái chết để de doạ những ai ăn ở bất lương lấy đó mà tự sửa mình. Và nếu như loài chó chúng tôi cũng có địa ngục, thì tôi tin hình ảnh của hoả ngục ấy sẽ không khác cảnh tượng mà tôi đang trông thấy là bao. Phủ trùm nơi đây là một mùi thum thủm, ẩm thấp và cực kì tồi tàn. Nền đất đầy chất thải, thậm chí là cả những vết máu đã khô, những chùm lông rụng được quơ vội và gom vô một góc. Ở đằng xa là một cái chuồng heo cũ được người ta dựng lại cho kiên cố, bên trong là ba bốn cái chuồng sắt chật hẹp, mỗi chuồng nhốt hai ba con chó được kê trên cái nền nhơm nhớp, nơi những âm thanh rên rỉ đánh thức tôi. Cạnh cái chuồng heo cũ đó không xa là vô số dụng cụ. Một tấm lưới sắt với những sợi dây dù ở bốn góc. Dù có thơ ngây cách mấy cũng sẽ dễ dàng hình dung ra cảnh một con chó bị cột chặt bốn chân và nằm phơi bụng trên tấm lưới ấy, để làm gì thì tôi chẳng dám nghĩ đến. Một thùng sắt rỉ sét chứa đủ các loại dao. Một cái nồi to tướng và cũ xì với lòng nồi chia làm hai màu rõ rệt do nấu nước lâu ngày. Củi, đồ khè lửa, một cái bếp to. Tôi hoảng loạn và không dám nhìn ngó tiếp.
Rồi tôi bắt đầu thu tầm mắt lại gần hơn một chút. Có vài con chó với ánh mắt thất thần, cái đuôi cụp sát đít, đôi chân líu ríu chụm vào nhau. Tụi nó đang co người ngồi thu lu một góc. Bọn này khác hẳn với cái đám trong chuồng, nhìn chúng đẹp mã hơn, là cái bọn ăn trắng mặc trơn, vật trang trí của đám cậu ấm cô chiêu đua đòi chăm thú. Tôi thấy một con Poodle với bộ lông trắng, xoăn tít thành từng lọn nhỏ, hai tai được nhuộm màu xanh lá cây như li sâm dứa, cái đuôi cụt ngủn như trái chanh ịn lên trên đít lại được nhuộm màu sữa dâu, nhìn thật dị hợm. Một con khác thuộc giống Beagle với bộ lông ba màu trắng, đen, vàng đặc trưng, vẫn còn đeo một cái nơ ngay cổ. Nếu đặt con này trong khung cảnh sạch sẽ và khang trang hơn thì chắc trông nó sẽ rất thanh lịch. Trong tình cảnh này, cái nơ lại khiến nó nhìn rất lố bịch. Mà các bạn biết rồi đó, bọn chó chúng tôi thì không có khả năng thay đổi vẻ ngoài của mình theo từng hoàn cảnh. Chúng tôi không thể tự nhuộm lại bộ lông của mình, chúng tôi cũng không thể tự tháo nơ ra khỏi cổ. Chúng tôi không có quyền lựa chọn ngoại hình, vì con người đã thay chúng tôi giành làm điều đó. Rồi tôi lại thoáng nghĩ về cậu chủ, ít ra cậu không tước đi quyền được làm chó của tôi bằng những hành động như đang đồng hoá chúng tôi với con người.
Tôi ước gì tuyến lệ của tôi cũng hoạt động tốt như của loài người, chắc lúc đó tôi đã khóc nhiều lắm. Tôi bắt đầu nhớ cậu chủ của tôi nhiều hơn, nhớ căn nhà êm ấm và sạch sẽ, nhớ những bữa ăn đúng giờ và chất lượng, nhớ luôn cả tiếng “Boom đẹp trai ơi, Boom đẹp trai à” của cậu Mèo. Và dù đang không đứng, nhưng tôi vẫn có cảm giác cơ thể như rớt xuống sàn chuồng một cái bịch, chắc vì nỗi buồn chất chứa trong tôi đã quá nặng.
- Đó, quý vị thấy chưa? Nhìn mấy con chó cỏ này rất tội nghiệp. Ở đây một chuồng nhốt tới hai ba con chó lận đó quý vị ơi. Quý vị biết không, tụi nó phải chen chúc nhau như vầy nè, thậm chí là còn bị bỏ đói nữa đó quý vị à. Nếu như không có ai cứu thì đúng chín giờ tối nay tụi nó sẽ bị đem đi giết thịt. Mà quý vị biết rồi đó, sức của em có hạn, em không đủ điều kiện để nuôi hết tất cả, nhưng thực sự là nhìn tụi này rất tội nghiệp quý vị ơi….
Suốt cả câu chuyện “quý vị ơi, quý vị à” là giọng nói the thé của một người phụ nữ. Bà ta đang ở khu vực cái chuồng heo cũ, vừa quay phim đám chó bị nhốt trong chuồng, vừa nhả ra những lời van xin thống thiết vô cái điện thoại. Thỉnh thoảng người đàn ông sẽ cầm điện thoại lia sang gương mặt của mụ, và mụ ta cố nhăn mặt lại để rặn ra vài giọt nước mắt.
Tôi nhận ra người đang ông cầm điện thoại quay phim ấy, hắn chính là kẻ đã siết thòng lọng vào cổ tôi. Bà ta tiếp tục lên tiếng sau khi gã đàn ông hạ chiếc điện thoại xuống.
- Rồi xong! Để lát nữa đăng, coi được bao nhiêu.
Tôi bắt đầu ngơ ngác. Bao nhiêu là sao? Bao nhiêu con sẽ được giải cứu hay bao nhiêu con sẽ phải giang tay trên tấm lưới sắt kia? Để đánh tan sự ngơ ngác đó của tôi, một giọng nói bất ngờ vang lên.
- Mụ ta đang ăn xin đó anh!
Lúc này tôi mới biết, thì ra tôi không phải bị nhốt riêng một chuồng. Cùng nhốt với tôi là một con chó cái, tôi đoán là lai Nhật, nó có bốn chân cao hơn tôi một chút xíu, bộ lông đen có pha vài mảng đốm trắng loang lổ như ai làm đổ sữa lên nền nhà. Không chờ tôi hỏi, nó lên tiếng:
- Em tên Sữa! Còn anh?
Thú thật, tôi không bất ngờ hay thấy kì khôi với cái tên đó của nó, bộ lông của nó là minh chứng cho tất cả còn gì. Tôi đáp lại:
- Anh tên Boom! Em bị người ta bắt khi nào?
- Đã gần một tuần rồi đó anh Boom! – Giọng của nó rớt xuống nghe buồn hiu.
- Tại sao bị bắt vậy?
Và Sữa bắt đầu kể cho tôi nghe câu chuyện của nó.
Đó là vào một buổi chiều đẹp trời, chị Trà, là cô chủ của Sữa dắt Sữa đi mua trà sữa, sẵn tiện cả hai cùng tản bộ qua một đoạn đường vắng. (Lại là đường vắng! Thấy chưa, tôi đã nói mà, đường vắng chưa bao giờ là an toàn cả!). Trên đoạn đường này, chị Trà có ghé để rút tiền từ một trụ rút tiền gần đó. Bọn cướp, và kiêm luôn cả bọn bắt chó, không biết đã canh me từ khi nào, mà khi chị Trà vừa rút tiền và bước ra khỏi trụ thì bọn chúng liền rồ ga chạy đến. Không chỉ cướp đi số tiền trên tay của chị Trà, chúng còn bắt luôn cả Sữa. Nhưng vì sợi dây dẫn của Sữa được quấn vào cổ tay của chị Trà, nên lúc Sữa bị bắt đi, bọn chúng đã làm chị Trà bị té và kéo lê chị một đoạn trước khi chị kịp tháo tay mình ra khỏi sợi dây.
Dứt câu chuyện, tôi mới để ý, hoá ra Sữa có đeo một cái vòng cổ, trên đó có cả bảng tên và số điện thoại của chị Trà. Thấy tôi nhìn vào cái vòng cổ, Sữa liền nói:
- Bọn chúng đã gọi cho chị Trà mấy lần rồi, nhưng chị Trà không nghe máy.
Tôi cảm nhận được sự ngắt quãng trong ba chữ “không nghe máy” của Sữa. Cùng với những quãng ngắt đó, tôi thấy mắt Sữa long lanh. Trong vài giây tôi thấy thương cho Sữa. Sữa không như tôi, nó không lựa chọn bỏ nhà ra đi để bị người ta bắt. Nó bị người ta tách nó ra khỏi vòng tay của chủ, ép nó phải lao ra đời. Sữa nhỏ hơn tôi vài tháng, mà tôi thì còn trẻ, tức là Sữa vẫn còn quá non nớt để hiểu cuộc sống khắc nghiệt này vận hành như thế nào. Bất giác, tôi đồng hoá bản thân mình với Sữa, tôi tin Sữa của những hôm đầu tiên xa rời vòng tay chị Trà đã hoang mang và sợ hãi như thế nào.
Tôi hướng mắt về đám chó phía chuồng heo cũ, hỏi Sữa:
- Bà ta nói “Để coi được bao nhiêu” là sao hả Sữa?
Gần một tuần trôi qua ở đây khiến Sữa trở nên rành rẽ cách hoạt động của địa ngục, nó kể:
- À, đầu tiên bà ta sẽ cho người đi bắt mấy con chó cỏ lang thang đó về, rồi quay phim mấy con chó đó, sau đó sẽ đăng lên mạng, xin tiền quyên góp của mạnh thường quân đó anh Boom. Hôm rồi có vài người đến đây, họ hứa sẽ tài trợ thức ăn cho đám chó mỗi tháng nhưng mụ ta không chịu. Mụ ta lấy lí do là tài trợ như vậy thì thức ăn sẽ không đồng nhất sẽ gây ảnh hưởng thế này thế nọ, cho nên mụ ngỏ ý xin tiền để tự chủ nguồn thức ăn, và người ta đồng ý.
- Vậy là đám chó ở đây không bị bỏ đói?
- Nhưng làm sao được ăn ngon như ở nhà hả anh. Mụ ta là một kẻ bịp bợm mà!
Đến đây thì tôi mới vỡ lẽ. Con người thật đáng sợ. Nếu “yêu thương loài chó” trở thành tôn chỉ của một tôn giáo, thì những người như mụ ta quả thật là một giáo chủ tài ba. Bà ta vịn vào sự siêng năng tin tưởng tôn chỉ của các giáo dân (nhưng lại là những kẻ lười thực hành tôn chỉ ấy) để sống. Thay vì đi tới đây, nhận một hai con chó mang về nhà nuôi nấng tử tế, người ta lại vung tiền ra cho kẻ khác thực hành đạo đức ấy thay cho mình. Thí một chút tiền của, để được khoác lên mình cảm giác là người tốt, chúng tôi vô tình trở thành những món lễ vật cho những cuộc trao đổi sự bình an giả tạo đó. Rôi sau vài lần quyên góp, người ta hẳn sẽ đinh ninh rằng, chúng tôi được chuộc, được đối xử tử tế, rồi họ lại chuyển lòng hảo tâm của họ vào những hoàn cảnh mới đang tuần tự xếp hàng phía sau. Nhưng họ sẽ mãi không bao giờ ngờ rằng, họ cũng như chúng tôi, đều là những diễn viên trong một tuồng kịch được mụ ta dựng lên. Chính mụ bày ra cuộc bắt bớ, rồi cũng chính mụ khóc thương cho cuộc bắt bớ đó.
- Vậy còn mấy con chó nhìn lố bịch kia? – Tôi hướng mắt về con Poodle tai xanh và con Beagle đeo nơ.
- Bọn chúng là chó xịn, không phải dân lang thang cơ nhỡ bị bắt về như mấy con kia, bà ta không quay phim đâu.
- Tại sao lại không quay phim? – Tôi hỏi.
- Nếu mụ quay phim, chủ của tụi nó thấy được, sẽ phiền phức lắm.
Tự nhiên tôi thấy con Sữa thông minh dữ dội, tôi hỏi tiếp.
- Vậy tụi nó sẽ như thế nào?
- Em nghe nói mụ ta sẽ chở tụi nó ra chợ chó!
- Ra chợ chó? – Tôi hơi thảng thốt.
- Đúng vậy! Bán ra đó cho mấy người buôn chó, họ sẽ bán lại cho người nuôi khác với giá cao hơn. Nhưng thường là tụi nó sẽ được chủ chuộc về, vì những người bị mất chó hay ra chợ chó đó để tìm lắm. Bà ta bán như vậy sẽ có giá hơn là bán cho mấy người lấy thịt.
- Vậy còn em? – tôi hỏi Sữa mà tự thấy rùng mình. Hỏi về số phận của em cũng như hỏi cho số phận của bản thân tôi vậy.
- Em cũng không biết tại sao tới giờ em vẫn còn ở đây nữa! Em nghĩ chắc mụ ta chờ đến khi gọi được cho chị Trà, lúc đó mụ ta sẽ kiếm được một số tiền nhiều hơn là bán em ra chợ chó. Còn anh Boom, tại sao anh lại bị bắt vào đây?
Tôi điếng người trước câu hỏi của em. Tôi không thể nói với em rằng do tôi ngu ngốc bỏ nhà ra đi, do tôi quyết tâm đi tìm “khung trời mới” theo lời xúi dại của Quại, cho nên mới bị rơi vô hoàn cảnh này. May mắn (hay là xui xẻo) cho tôi, tiếng nói của mụ đàn bà giả tạo cắt ngang cuộc trò chuyện của tôi với Sữa, ngăn câu trả lời e thẹn của tôi lại.
- Gọi chủ của con này được chưa? – Bà ta chỉ tay vào Sữa, hỏi.
- Chưa nữa, bữa giờ gọi hoài mà không liên lạc được. – Gã đàn ông quay phim ki nãy trả lời.
- Thôi đem nó đi chung với mấy con này luôn đi.
Bà ta hất hàm về phía mấy con chó lố bịch, ra hiệu cho gã đàn ông bắt Sữa. Sau hiệu lệnh của mụ, gã bắt đầu tiến tới cửa chuồng của tôi. Trong giây phút đó, một cảm xúc mãnh liệt trỗi lên trong tôi. Nó thôi thúc tôi tiến lên phía trước mặt Sữa, đối diện với gã đàn ông kia. Giống lần tôi chứng tỏ sức mạnh với cậu Mèo, cảm giác mong muốn được đứng ra bảo vệ cho kẻ yếu hơn đang khao khát trong tôi. Tôi bắt đầu gầm gừ, gã càng tiến sát tới chuồng, tôi càng gầm gừ to hơn. Hai mép miệng của tôi như có ai vuốt ngược lên, chúng nhăn lại, để lộ ra hàm răng chắc khoẻ. Mắt của tôi bắt đầu long lên. Tôi cảm nhận rõ những mạch máu đang căng hết mức trong tròng mắt. Hai chân trước của tôi dang rộng, thân sau hơi khuỵu xuống, tôi thủ thế. Trong lúc này, chỉ cần hắn manh động, tôi sẽ cho hắn tơi tả còn hơn cách tôi đã làm với con chó ghẻ.
- A, con này dữ!
Gã hơi chần chừ, lườm tôi một cái rồi lùi lại. Tôi thấy gã xoay người đi, tiến lại chỗ chuồng heo cũ, nơi có bộ đồ nghề. Gã lục đâu đó ra một cây sắt dài cỡ cánh tay người, nhọn ở một đầu. Một lần nữa, gã bắt đầu tiến về phía chúng tôi. Tôi nghe thân của tôi ấm lại. Là Sữa, lúc này con bé đã co người sát vào thân của tôi, nó ư ử gì đó trong miệng mà tôi nghe không rõ. Tôi lùi lại một chút, ép Sữa vào sát vách chuồng phía sau, tôi vẫn trong tư thế phòng thủ sẵn sàng tấn công gã đàn ông.
Hắn ta đã tiến tới sát chuồng của chúng tôi. Hắn bắt đầu chọt cây sắt nhọn vào chuồng, giữ ở vị trí mà chỉ cần tôi có dấu hiệu manh động thì cây sắt ấy sẵn sàng xiên qua vai tôi. Tôi bắt đầu gầm gừ to hơn cảnh cáo, vị trí của cây sắt càng gần hơn về phía tôi. Hắn bắt đầu dùng tay còn lại để mở cửa chuồng. Trong khoảnh khắc, khi chốt cửa vừa kêu một tiếng cách, đèn trong khu nhà bỗng tắt ngúm. Không gian bỗng tối đen, những tiếng ồn ào bắt đầu xuất hiện.
Bình luận
Chưa có bình luận