Vậy là phòng tôi thành một gia đình, sắp xếp đồ đạc một chút thì cũng rộng rãi. Ô Nam được gán cho một thân phận là cha của tôi bị thất lạc ngày xưa, bà Khiết cũng thuận tiện hợp lí hóa việc này. Dung mạo ông bị bóng tối hủy hoại nên chẳng ai nhận ra.
Y Hồng thì cách li với làng. Họ có công việc ổn thỏa. Cha tôi rất thật thà, "thích" chịu đựng và ít nói. Chúng ta không hiểu ông nhưng mối quan hệ rất tốt. Tôi thích mạo hiểm, cha tôi có dạy một câu mà tôi cho là định kiến, mười năm rồi nên không còn thích hợp:
- Con là con gái, kẻ khác sẽ không chấp nhận một cô gái mạnh mẽ, họ sẽ xa lánh, chê cười. Con nên là một thục nữ, biết chăm lo và dịu dàng…
Nhưng tôi vẫn tôn trọng ông và hạ mình xuống làm con. Tôi thích uống rượu "Vở Mao" mà ông phát minh.
Y Hồng thì lại rất lạ, thích hạ mình xuống thấp hơn nữa giống như kẻ hầu hạ cho cha con tôi. Tôi không muốn nhưng cũng bất lực lắm, không thay đổi được. Tháng trước, cô ấy cắt tóc ngắn và bắt chước tông màu trang phục của tôi.
Lại nói, tôi chưa từng nghĩ đến gia đình. Bà Khiết đã dạy bảo, rằng tôi cất tiếng khóc đầu tiên vang khắp làng Lão Phụ. Chính tôi cũng thừa nhận điều đó khi nhận thức được sự tồn tại của bản thân và thế giới.
Có mấy lão già hỏi cha mẹ tôi đâu thì đáp rằng tôi tự sinh ra. Mấy ông này trêu tôi sinh ra từ con bò vàng hoặc… một cây cổ thụ, và tôi chẳng bận tâm. Còn khi tôi hỏi ngược lại họ sinh ra từ đâu thì tất cả đều cười thần bí, không bao giờ tiết lộ chuyện riêng tư.
Một năm sau, công việc với tôi ngày càng nhàm chán. Bà Khiết nói mặt tôi rất đờ đẫn, chính tôi cũng không biết. Tôi hỏi bà:
- Bà biết công việc của cháu trong tương lai không?
Bà thở dài, bỗng quát:
- Cả đời làm ngư dân. Làng mình không tranh đua với ai cả, mỗi thành viên đáng ra sẽ được tự do làm và sống. Nhưng đây là quy định tập thể từ lâu lắm rồi.
Một năm sau nữa, Y Nam cũng cho giảm thuế xuống ⅓. Riêng tôi và bà Khiết được miễn hẳn, không phải nộp như mọi tháng trước nữa. Tuy vậy, công việc "vặt" ngày càng nhiều và trở nên vớ vẩn, giống như tên này đang hối hận khi cho tôi một món quà lớn.
Hơn một năm rưỡi sau, những kẻ đặt cho ngọc trai giá trị cao thành tiền đã về làng. Họ mang về sách là chính, chép kinh nghiệm, kiến thức về các nghề trong làng.
Đọc sách tôi cũng biết được một số truyền thuyết. Ví dụ câu chuyện của "Thần Tham Ăn" - kẻ sáng tạo thế giới. Đại ý là một con lợn - hoặc gần giống lợn, khổng lồ, ăn mọi thứ, ăn nhiều quá mức mà vỡ bụng, thân thể và những gì bị bao chứa bên trong vỡ tràn ra hóa thành thế giới.
Ngày họ về làng, dân chúng tập hợp ở nơi gọi là Tràng Cầu Treo - gồm vài chục cây cầu gỗ treo dọc ở một thung lũng ở phía sâu trong làng. Dân đứng trên cầu, đặt tâm điểm xuống đáy thung lũng, ở đó nguy nga tráng lệ lắm, có một bộ bàn ghế làm hoàn toàn bằng đá mặt trời.
Vì bị bắt buộc nên tôi phải bất đắc dĩ tham gia cuộc gặp mặt hai ngày không ngủ ấy. Nhưng cũng biết được một ít thông tin, "họ" là ai? Là bốn Tua.
Có hai Tua là anh em, một nam một nữ, quần áo trắng gọn gàng, tóc bồng bềnh như khói. Tua nam là anh, tên là Nguyễn Thuyền, Tua em là Nguyễn Uyên Nhi. Nghe nói dòng họ Nguyễn rất nổi và chiếm số đông. Nhưng làng tôi chỉ toàn lấy họ "A", "Ê", "Y"… (tôi nghe đâu đây là họ của dân tộc thiểu số). Anh Thuyền lớn hơn tôi nhiều, vẻ rất chững chạc. Em gái kia nhìn nhỏ hơn tôi mấy tuổi - tôi nghĩ thế vì da mặt kia hơi non nớt và… có vẻ mềm hơn tôi.
Ngồi gần hai anh em là Tua nữ tóc thẳng vàng, áo chéo "cồng kềnh", váy dài "thướt tha". Cô ta tên là Vũ Nguyệt Thục, là... bạn xã giao của tôi, ước chừng chúng tôi bằng tuổi nhau. Nghe đâu cô ấy mang về cuốn sách nổi tiếng "Bánh xe lịch sử".
Tua cuối cùng cũng là nữ, có phần lớn tuổi nhưng nhan sắc vẫn giữ phần nhiều trẻ trung. Dựa vào họa tiết trên áo chéo, và cách quấn tóc thành mâm thì đó là một cô bác rất giản dị. Tên bác là Ô Bích Vi, là một nhà giáo đã từng dạy tôi. Nhìn bác, có kẻ trầm trồ:
- Đôi mắt kia…
Tôi thắc mắc thì được đáp:
- Nó màu tím và nhìn khóe mắt kia. Nhìn đi! Thấy không? Đuôi mắt rất dài.
Tiếp đón họ, Tua lão cùng các Tua có chức vụ mời những món ngon nhất, gọi là món "ngày xưa họ thích ăn". Vì cả bốn Tua này đều có gốc tích từ làng, họ là thiên tài xuất chúng nên được đưa đi Kinh Quốc học tập.
Tuy vậy, không phải vì làng xem trọng họ quá mà hạ thấp bản thân, nhiều kẻ không ra mặt ví dụ như vị thẩm phán già nọ, Y Nam, quản lí sông Chài - bà Khiết… Có một sự thật, ai cũng quý trọng Nguyễn Thuyền cả.
Tôi nghe thông báo anh em Nguyễn Thuyền không đi đâu nữa, còn Nguyệt Thục vẫn đi tiếp. Bà Bích Vi thì không rõ thế nào. Thế rồi có một chuyện lại tiếp diễn, có điều bớt đi phần nào khó chịu: Cả làng góp ngọc trai cho Nguyệt Thục đi học, gọi là làm vẻ vang làng.
Ngọc trai này nghe đám đông nói chúng hiếm ở phố Lận Đận, tương đối có giá trị quy đổi. Làng phải nộp ngọc, mỗi thành viên nộp một trăm viên là tối thiểu, tương đương mười mấy ngày làm việc của tôi. Quỹ làng cũng bỏ ra hơn phân nửa.
Tôi tiếc rẻ, sao không phải là tôi đi học? Không được ít ra cũng được đi chơi đây đó chứ? Ấy mà không có gì cả. Tôi nghe nói số ngọc gửi đi như cho vào túi không đáy. Nhưng ai không giúp đỡ lại là bất trung với làng. Tuy vậy, tôi không sinh lòng thù ghét ai trong số họ.
Giọng Nguyệt Thục vang khắp Tràng Cầu Treo (dĩ nhiên phải có hệ thống khuếch đại âm thanh):
- Thục biết ơn làng lắm. Thục phải đi cống hiến cho văn minh của Tua, xã hội lớn vì ở đó có điều kiện nhiều hơn. Xin đừng nói Thục bất nghĩa, lòng Thục luôn hướng tới đất tổ. Có thành tựu Thục chắc chắn sẽ giúp làng Lão Phụ nhiều hơn cả.
Nguyệt Thục nói có vẻ rất cao siêu và trách nhiệm với xã hội bên ngoài. Hình như cô ấy nhận ra vấn đề ở nhiều dân làng nên đã giải thích.
Một lúc không để ý, nhìn lại phía dưới thì thấy như đang có tranh luận như cãi vã. Nhưng vì khoảng cách xa và họ nói nhỏ dần nên chẳng nghe hiểu được gì.
Tôi đứng dựa vào lan can, nghĩ ngợi vẩn vơ. Phút bế mạc, bốn Tua cùng phía lãnh đạo làng đi từ dưới lên qua các cây cầu cho dân làng nhận diện, gần gũi hơn. Dân làng đứng gọn vào hai bên sát lan can, bàn tán về những chuyện đã xảy ra.
Lúc họ tới đầu cầu tôi đang đứng, bỗng - hoặc môt cách tự nhiên, Nguyệt Thục nhìn tôi. Tôi hơi sững lại, nhìn đôi mắt nâu huyền bí kia, nó như chứa đôi cánh bướm đen, rất hợp với khuôn mặt trứng ngỗng. Thói quen thúc giục làm tôi hơi ngứa ngáy, bắt thân thể phải làm gì đó, tôi cúi nhẹ đầu chào. Nhưng khi ngước mặt nhìn lên thì cô ta đã bước qua rồi.
Dân làng ai về nhà nấy, tôi ghé Khe Chợ mua một ít lương khô, nguyêu liệu cho rượu "vở mao" rồi về phòng mình. Không nghĩ có khách quý đợi tôi, là nhóm bốn Tua đó.
Họ đứng sát bờ sông Chài, gần căn phòng biệt lập của tôi nhất. Trừ Uyên Nhi đang lặn ngụp dưới nước - tôi buộc phải suy nghĩ về khả năng nhận thức của em ấy và ba Tua còn lại trên bờ trò chuyện. Sao họ lại đến đây?
Y Hồng chắc chắn ở trong phòng, nhưng cô ấy không thể mở cửa. Vừa xuất hiện, không để tôi suy nghĩ ứng biến thì anh Thuyền từ ngồi xổm nhanh chóng đứng dậy, nói:
- Chào em.
- Vâng, chào anh, chào bà, chào bạn… - Tôi cẩn trọng mời họ vào nhà - Em ơi, lên đây!
Tôi nhìn Uyên Nhi trong dòng nước đục, cứ thấy mình cần hành xử làm sao đó cho thỏa đáng. Thật may tôi không phải lo nữa, vốn là vậy, Y Nam đi trước tiến vào nhà, bước đi hơi chậm, mất tự nhiên.
Tôi mở cửa sổ, mở nắp đậy đá mặt trời làm căn phòng sáng và ấm dần. Nhưng nhìn điệu bộ của anh Thuyền có vẻ không muốn vào, hình như ban nãy bà Bích Vi có dấu hiệu đi trước một bước nhỏ nên anh ta bất đắc dĩ chủ động vào.
Trong phòng bàn ghế xếp gọn gàng, bày ra hai cái ly bằng ống tre hơi lạ. Tôi tò mò trong chính phòng của mình, lại gần xem thử. Mặt cốc sủi bọt, đây là rượu "vở mao" vừa rót không lâu.
- Tôi tới đây để gặp một bạn bè năm xưa - Ngồi vào ghế, anh Thuyền nói lớn, ánh mắt rất kín đáo liếc nhìn những chỗ khuất mà rộng trong phòng, vẻ chờ đợi.
Nhưng rồi anh ta phải thở dài. Tôi tự biết rằng "bạn" trong miệng anh ta nói "không có ở đây". Lẽ nào "bạn" là cha hoặc Y Hồng? Họ biết tôi giấu tội phạm không hay vẫn mù tịt về nó? Tôi chẳng có tính lạc quan nên luôn nghĩ, lo về những điều tồi tệ để sau nếu chúng xảy ra cũng bớt bất ngờ.
Đột nhiên, bà Bích Vi đứng dậy, chạm vào đầu tôi nhẹ nhàng, nói:
- Thôi, chào cháu.
Rồi bà đi thẳng ra ngoài cửa, không ai níu bà lại, vừa hay lúc ấy Uyên Nhi hớt hải chạy vào. Cả hai xô nhẹ vào nhau, cũng may họ phản ứng nhanh nên không có chuyện gì to tát xảy ra. U Nhi cứ nhìn quanh phòng như đang kiếm thứ gì bị thất lạc.
- Hiện tại bạn ở một mình sao? - Nguyệt Thục nói làm tôi giật mình lo lắng, rồi cô ta cẩn thận lấy một ly rượu lên, nhìn tôi tỏ ý xin phép.
Tất nhiên tôi không thể từ chối, lòng không muốn lắm vì từ hai li rượu này có thể đoán ra câu chuyện gì đó. Uống rồi, Nguyệt Thục mỉm cười, biểu cảm khuôn mặt hiện rõ hai chữ "thú vị" như tôi ngày nào.
- Em là ngư dân à? Cuộc sống thế nào? - Anh Thuyền hỏi tôi.
- Vâng, cũng tạm ổn. - Tôi gật đầu, cứ thấy tâm trí phiêu dạt và buồn chán. Tâm trạng tôi đến là lạ.
- Tôi rất cảm ơn ngư dân vì họ cho chúng tôi nhiều điều. Nhờ em chuyển lời giúp tôi. Nghề nào cũng vậy, chỉ cần trung thành với làng, sát cánh nhiều năm rồi mức sống tự sẽ cao lên.
Bình luận
Chưa có bình luận