Tôi cảm giác có một lớp sương mù bọc ngoài khuôn mặt này, nó khiến tôi không thể nhìn thấu và cho rằng đối phương hiểu biết rất nhiều chuyện.
- Dạo này lũ chuột làng Chơ ngoài kia có ý định phản… - Anh ta nói vu vơ.
- Vâng. - Tôi gật đầu cho có lệ. Chẳng liên quan gì đến mình.
Chúng tôi trò chuyện thêm một lát thì kết thúc. Nguyên do là vì Nguyễn Thuyền là một tay nói năng dứt khoát, thẳng thắn khiến cuộc trò chuyện mất sự "hài hòa" rồi dần lúng túng.
Anh ta đứng dậy, kéo theo Uyên Nhi đang đứng cầm kẹo mà không chịu ngồi.
- Cảm ơn vì số kẹo này. Tôi ở lại làng nên sẽ giúp lai sau. Tôi quen sống trên mặt đất rồi nên ở đây không quen. Em thông cảm. Em muốn lên mặt đất theo không?
- Vâng. - Thoạt đầu nghĩ là không nhưng miệng tôi không do dự đáp.
Họ đi ra ngoài, Nguyệt Thục mang theo cả cái ly tre. Tôi nán lại phòng đẩy ghế gọn gàng. Y Hồng từ đâu ra, bỏ thêm kẹo lên bàn, chẳng nói gì. Tính cách cô ấy thế, tôi không ý kiến gì.
Lắc nhẹ ly rượu còn lại, tôi uống. Có vài dòng chữ hiện ra sau khi màu đen của mực rượu hạ thấp. Điều này nằm trong dự đoán của tôi, thật may mắn, thế nhưng còn ly rượu kia thì sao?
Tôi nghiêng ly, nhìn chằm chằm, đọc nhẩm: "Con uống rồi. Bố nói cho con biết một bí mật: Rượu này không có tên là vở mao. Bố đi rồi con ơi, đi đến một nơi xa. Sa Mạc Kinh đấy. Bố tìm kho báu cùng mẹ của con là mẹ Bích Vi - chắc con đã gặp rồi. Cảm ơn con sau nhiều năm nuôi cái miệng già này. Tài sản của bố vẫn còn một ít ở địa ngục, con sẽ tự tìm ra được nó và cứ tiêu xài đi. Chúc phúc cho con. Tạm biệt con."
Tôi yên lặng một hồi lâu rồi ra khỏi nhà. Giọng Y Hồng nói vọng ra:
- Đi cẩn thận.
Tôi ra đây thì thấy anh Thuyền và Uyên Nhi đang đứng đó, thấy tôi thì vẫy tay gọi lại gần.
- Chuyện gì thế? - Tôi hỏi nhưng vì vô ý nên âm lượng nhỏ nên họ vẻ không nghe được, cũng không chú ý.
Tôi tự có đáp án, hệ thống lên xuống đang có rất nhiều động vật đi xuống.
- Cô ấy… làm sao đó lên được luôn rồi. Còn đường khác chứ? - Nguyễn Thuyền hỏi.
- Dĩ nhiên! - Tôi chỉ về phía kia và đi trước.
Vậy là Nguyệt Thục và bà kia đã mất tăm. Bỗng Uyên Nhi chạy vọt lên trước tôi, nhe ra mười mấy cái răng trắng. Tôi thấy em thật không bình thường, như búp bê vậy, nãy giờ chẳng nói một lời.
- Nó bị điếc bẩm sinh, tâm trí không bình thường. Tôi đem nó đi Lận Đận chữa bệnh.
Từ sau, Nguyễn Thuyền nói, giọng buồn lắm. Tôi nhìn cô bé trước mắt, cảm thấy em tội nghiệp và cần được quan tâm thật nhiều.
Lên mặt đất. Giờ thứ năm, nền trời bấy giờ được nhuộm một màu xanh rất đậm của biển, điểm vài mắt cá sáng lung linh. Nổi bật nhất là Hằng, trông như thuyền giữa đại dương, đẹp mê hồn. Từng dải vải vàng bó chặt rừng cây, ngọn cỏ, thậm chí cả không khí… khiến chúng bất động. Không gian tĩnh lặng, bao la và bình yên.
Thân thể tôi khoan khoái nhưng tâm trí thì không. Tôi lẩm bẩm:
- Tại sao ta có trên đời?
- Ồ! Hóa ra em cũng có nhiều cảm xúc khi nhìn bầu trời. Tôi, càng nhìn thì tôi càng tin vào nhân quả. - Anh Thuyền ngước mặt, cười bí hiểm.
Chúng tôi đứng trên một đỉnh núi, cách cổng làng một vài trăm bước. Phía xa xa kia, nơi một đỉnh núi cao hơn, tôi thấy Nguyệt Thục đứng bên phải Tua lão. Nhưng với góc nhìn của hai bọn họ, thì ông già đứng sau cô gái. Ông đứng sau, vắt tay sau lưng, chỉ nhìn trời. Còn cô ấy hờ hững đứng sát bờ đá trông rất nguy hiểm, tôi nghĩ chỉ cần một cơn gió đủ mạnh cũng đủ để…
Chân trái thẳng, chân phải khụy, tay cầm cốc, mắt nhìn trời; Nguyệt Thục vô tư, lạnh lùng, kiêu hãnh, bễ nghễ. Bỗng cô ấy nhắm mắt lại, giơ cốc hứng - lúc này tôi dồn mọi sự chú ý vào cái cốc. Gió bắt đầu nổi lên, mây đen ùn ùn kéo tới. Hằng bị mây phủ, đắm xuống đại dương, nền trời vẫn le lói chút ánh sáng vàng. Cô ấy lắc nhẹ cốc như làm tan thứ gì bên trong rồi nhấp môi uống dứt khoát. Tôi đứng lặng, lòng yên tĩnh, thấy Nguyệt Thục thật vĩ đại.
Một bên, Uyên Nhi tung tăng, Nguyễn Thuyền suy tư.
Vài ngày sau…
Bầu trời bên ngoài tối om mặc cho đêm hay ngày, mây đen dày đặc, không khí lạnh lẽo. Thỉnh thoảng có mưa phùn, đến bất ngờ và nhanh qua như một khúc dạo đầu của bản ca đại hồng thủy.
Làng không sợ thiên tai này vì nhà chung này nằm trong quả núi đã vững chãi bao nhiêu năm. Ấy thế mà tôi nhận thấy không khí có sự rục rịch, lo lắng. Áp tai xuống mặt đất, càng gần sông Chài càng rõ, có tiếng hú của con thú nào đó.
Thỉnh thoảng, mặt sông có cá chết nổi lềnh bềnh, có con yếu ớt. Dân làng Lão Phụ không rõ chuyện gì xảy ra cả, sao mà hỏi "cá ơi tại sao lại thế" được. Động vật có con ngu ngốc, có con thông minh, có con thông minh hơn cả mà.
Dân làng không còn lao động nữa, thấy rõ nhất là động vật, họ kéo tới sông Chài ngồi bên bờ nước, không ai xuống cả. Phía sông Chì tôi không tới, đoán rằng cũng tương tự nơi này. Khắp sông Chài chật ních, ngột ngạt; tôi không tìm thấy bà Khiết trong đám đông.
Khoảng mười Tua cũng xuất hiện, hoàn toàn lớn tuổi và dáng khắc khổ, khoác áo choàng màu tối rất kín mặt. Vì vậy mà Y Hồng không "ẩn náu" nữa, cô ấy ra khỏi nhà, cũng khoác áo choàng đen. Nhờ vóc dáng "phổ biến", không ai bận tâm đến cả.
Các vị Tua già gán cho chính họ và đám đông các con số theo thứ tự. Tôi mang số 12, con số cao nhất là 359.
Tôi ngồi ở một chỗ thoáng với Y Hồng, tay cầm một tấm lá héo có khắc chữ, lẩm nhẩm đọc lại nội dung "Tập hợp, phòng 200." rồi ngứa tay tước nó ra thành chùm.
Đó là lệnh của kẻ thu thuế. Hôm đó chỉ có tôi và Y Nam. Trong căn phòng lạnh run, tôi không thể yên lòng được, cứ lo lắng nhìn ra khung cửa sợ ai tới. Nghĩ lại thấy bản thân hơi khác lạ, lạ theo hoàn cảnh, tình hình của làng.
- Hôm nay có nhiều động vật xuống sông Chài quá. - Tôi nói, thoáng liếc Y Nam đang ngồi trên bàn đá.
- Đừng thẫn thờ nữa, có ai làm gì đâu? - Y Nam nói, nghe ý có vẻ tốt nhưng tôi lại run nhẹ - Bà ếch đen kia bị quản thúc rồi, không khác giam cầm. Không biết bao giờ được thả.
Đột nhiên đứng dây, hắn lại gần tôi gằn từng chữ, khí lạnh theo những thanh sắt thụt ra thụt vào phả lên mặt tôi:
- Thằng Nguyễn Thuyền định làm gì đó liên quan đến tôi, ảnh hưởng đến cả bốn chúng ta. Ừm, chắc tôi phải nói cho cô biết. Có thể chúng ta sắp phải chia tay thôi, không thể gặp mặt trực tiếp mà nói nữa.
- Về chuyện gì? - Vấn đề có vẻ nghiêm trọng, lại thêm lời hắn nói như chứa sức hút và mệnh lệnh, khiến sự tò mò trong tôi dù giấu kín vẫn bị phơi bày.
- Khoảng 100 năm trước, một thằng già tên là Phụ đã lập làng ở đồi Bát Ngửa này. Biết không, đồi bị nước biển bao bọc. Chính xác là đồi nằm trên một hòn đảo, quanh bờ đảo là núi non dựng như tường thành cản lại nước biển tràn vào. Đảo này chìm mà, lòng đảo rất sâu. Và Roi bọn ta đã thiết lập một hệ thống ở các bức tường, nếu để tự nhiên thì nước tràn vào rồi. Bọn ta xử lí nhiều chuyện lặt vặt liên quan đến chuyện này nữa. Chắc cô biết lí do thu thuế rồi nhỉ? Có nhiều chuyện tôi phải làm, đàn anh giao mà, tôi là đàn em thôi.
Trong khi hắn quay lại bàn đá, tìm mò thứ gì trong cái túi vải thì tôi cố bày ra thái độ nghiêm túc, sự quan trọng và ngang hàng với đối phương. Giọng tôi đầy ý chất vấn:
- Vậy bà Khiết là tay sai của anh ư? Anh có cứu bà ấy không? Còn tôi?
- Yên tâm. Biết viết chữ mà đúng không? - Y Nam lại gần, xòe bàn tay đen lạnh ngắt ra, có tàu lá xanh lơ lửng. Lại nói - Nó là lá chuối thoại, không giống mấy tờ giấy cô biết.
Tôi vừa gật đầu nhẹ thì Y Nam nói tới tấp. Anh ta dùng một tay kia đâm xuyên vào cái "màng" vô hình bọc ngoài tàu lá, tức thì tàu lá như được rút ra từ một cái bọc.
Tôi biết cái bọc đấy là khí bảo hộ, có tác dụng bảo vệ thực phẩm, chứa được cả nước bên trong. Nó hữu hiệu thế nhưng chỉ đối với ai khỏe mạnh nhét được tay vào cái màng đầy tính đàn hồi ấy. Một năm trước tôi đã lấy được đồ ra từ cái bọc ấy, nhưng chỉ với lớp khí tương đối mỏng bọc nước lại thôi.
Đoạn, anh ta xé dọc lá theo cuống lá, phân thành hai nửa, đưa cho tôi một nửa, nói tiếp:
- Viết chữ lên một mặt nửa lá này thì nửa lá kia sẽ hiện chữ y hệt. Chúng có liên kết sống. Hai ngày sau sẽ có chuyện đây.
…
Bình luận
Chưa có bình luận