Tư liệu tham khảo: Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch sử Việt Nam - từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX và một số tư liệu khác.
Giới thiệu:
"Nhong nhong nhong nhong
Ngựa Ông đã về
Cắt cỏ Bồ Đề
Cho ngựa Ông ăn."
(Đồng dao)
Lưu ý: Truyện lấy cảm hứng từ một số sự kiện và con người có thật trong lịch sử, nhưng trung tâm không phải câu chuyện lịch sử. Tác phẩm chỉ là sản phẩm hư cấu của cá nhân, xin đừng nhầm lẫn với các nguồn nghiên cứu, thông tin và ghi chép chính sử. Phát ngôn của các nhân vật đều được dựa trên thiết lập nhân vật, không đại diện cho tư tưởng của tác giả. Nếu có sai sót, hy vọng nhận được sự góp ý từ mọi người! Chân thành cảm ơn!
____________
1.
Úi chà, chẳng biết có chuyện chi mà trong nhà ngoài ngõ, người nào người nấy đều rộn rịp thế nhỉ? Từ qua đến nay rồi, tay người này khua khoắng trúng tay người kia, chân người này giậm phình phịch trúng chân người nọ, chân đăm đá chân chiêu, chân tay ai cũng rối hết cả lại, giọng thì cứ ríu rít như chim chuyền cành. Họ luôn mồm nói cái gì không rõ. À, dăm ba thứ chuyện người nhớn ấy mà, nào đến lượt trẻ con được nghe, được hiểu. Và đấy, người nhớn cứ như con nít, họ hay làm mọi sự rối đanh lên. Cả làng nhao nhao, đình trung điếm sở cứ rốp ra rốp rẻng. Sáng nay cũng vậy này, tiếng dao thớt gõ ký cốc ngoài sân làm Thuấn tỉnh giấc. Trời còn tối mù, trăng lưỡi liềm treo ngọn đa. Nó bỏ chân xuống phản. Chà! Mặt đất buốt sương, gà còn chưa gáy, rõ ràng chưa đến ngày mới. Canh mấy rồi nhỉ? Trống cầm canh không thấy khua. Người nhớn trong nhà không định ngủ hay sao? Thuấn giẫm lên sương mai mà đi, rón rén dựa vách cửa. Ngoài sân, tiếng lợn oe éc như tiếng con nít đòi bú tí, người ta giết lợn đấy, nhưng chẳng biết là đãi ai. Con lợn này chân cu da giấy, là lợn tốt dễ nuôi chứ không xoàng. Con lợn giãy như cá mắc cạn, sợ khiếp, các người tha cho tôi đi, sao hôm qua vừa cho ăn mà hôm nay lại đè tôi ra giết thế này? Con dao quắm đâm vào bụng lợn, máu đổ xuống cái bát to, sánh như mật. Thân con vật cục cựa. Mùi máu nồng quá! Thuấn bịt mũi chạy.
Đến chái bếp, nó đụng phải chị Thường đang xách quang cỏ đi vào. Chị Thường nghiêng sang, nánh [1] thằng bé. Tiếng vòng vàng, kiềng nhẫn va lanh canh.
“Ối giời, ai đấy hử, lướt phăng phăng cứ như ma ý! Ồ, ai đây? Ông giời con, đuổi bắt với ma đấy à mà cuống cà kê lên thế! Sao không ngủ?”
Chị Thường lùi lại hai ba bước, guốc khua lốc cốc, có lẽ vì vội chạy mà vừa rồi Thuấn không nghe thấy tiếng chân chị vào.
Nó giật mình, chưa biết lách đi đường nào, song không nhìn lên ngay. Nó đang nhìn xuống đôi guốc mộc. Ái chà, Thường hôm nay làm duyên làm dáng tợn, chẳng biết khuya khoắt thế này là để ai nhìn. Canh này ấy à? Người thì chưa thức mà ma chuẩn bị đi ngủ rồi, chị diện cho bề nào xem đấy hử? Gớm chưa, nay đến chị Thường còn biết chưng diện. Kìa, đôi guốc mộc khảm một bông hoa cúc bé tí bằng xà cừ ở gót, mỗi lần nhấc chân lên, phải để ý kỹ lắm mới thấy he hé một ánh chớp tắt, nhưng trong đêm ngập ánh giăng [2], nó loé sáng như đâm vào mắt, không muốn để ý cũng chẳng đặng đừng. Quay đeo da thuộc chắc lẳng, còn mới tinh, được đánh sạch bóng hới như cố tình cho không còn ai nhận ra là làm bằng da trâu nữa. Cả thân guốc được mài nhẵn mịn phết dầu lanh, cho bàn chân con gái thêm phần bóng bẩy. Ồ, nhắc đến đôi chân lại phải nói, còn đâu đôi chân thô ráp cáu bẩn thường ngày của một cô thôn nữ. Hẳn chị phải mất cả ngày hôm qua ra bến sông Bồ Đề chà rửa nó thật sạch, tỉa tót móng khoé gọn gàng, lấy đá sạt bong hết lớp chai đi, để giờ hiện ra đôi chân nõn nà mềm mại đây. Mà phải nhẽ, guốc này phải đi với chân ấy mới xứng, nên buộc lòng mới đòi hỏi chút kỳ công rửa ráy. Cũng kinh hồn táng đởm phết chứ đùa!
Lần đầu bu mua cho đôi guốc, chị nhận mà tay run cầm cập, nói rằng giời ơi món này là cho người ta ăn trắng mặc trơn mới dùng, ai như nhà mình lại phí của cho một thứ đem đạp xuống đất. Chị cất ngay vào hòm riêng, khoá lại. Chị có bao giờ tơ tưởng đến chuyện mang đôi guốc ấy đâu chứ! Chị bảo để dành đến lúc lấy chồng.
Thế mà chị Thường đã lấy chồng đâu, sao hôm nay lại mang nó đi xách cỏ. Hài hước thật! Ấy là dương gian đảo điên hết rồi!
“Mà này! Lên giường ngủ đi chứ!” Chị nói tiếp và hình như lại dịch người, làm mấy chiếc vòng tay kêu lổn cổn, “Mấy lại, sao mặt mày không còn chút máu nào thế hử?”
Trong ánh sáng nhá nhem, chị để ý thấy cậu em trai đang mặt cắt không nặn ra được một giọt máu. Ngũ quan Thuấn bệu bạo như chực khóc, chẳng biết bị ai làm tội tình gì, hay vừa nằm mê [3] thấy mấy thứ bậy bạ?
Chị ngó ra ngoài sân, tiếng lợn tru tréo truyền vào, cơn đau oằn oại khiến tràn kêu không còn giống giọng lợn mà mọi người hay nghe nữa. Nói khí không phải, nếu là ngày bình thường, có khi người ta còn tưởng đó là tiếng chó sủa trăng cơ.
“À, thấy người ta giết lợn nhỉ? Ai khiến xem, thật tình!” Trong bóng tối, mắt Thường hiêng hiếng [4].
Chị xoa đầu thằng nhóc, như muốn vỗ về. Đến giờ Thuấn mới để ý, Thường đâu chỉ mang mỗi đôi guốc quý, dường như có thứ châu báu ngọc ngà nào, đồ trang sức tế nhuyễn [5] nào, lụa là gấm vóc nào, kiềng nhẫn chuỗi hạt nào, chị cũng đều đem ra quấn hết lên người mình. Dân quê ai lại mua trang sức để đeo bao giờ, người ta mua trang sức là để làm của, là để khoe khoang, để tô điểm bản thân, để giữ đó khi nào cần kíp thì lấy ra bán đi. Hiếm hoi lắm, người ta mới phải đeo để điểm trang đôi chút trong những dịp quan trọng, để còn cái uy phong mà hất mặt nhìn đời. Chị ngẩn thật rồi, trang sức ai lại đeo như thế, diêm dúa hết phần thiên hạ!
Xem kìa! Chuỗi ngọc đeo tay hạt bồ đề, trên tóc còn ghim trâm bạc, cài thêm lược gỗ, lược khắc mẫu đơn bao chữ “Thọ” ở giữa – nhắm chừng chị không biết đó là chữ gì, không mấy ai biết, cứ thấy đẹp thì mua thôi. Xem kìa! Kiềng đeo cổ có khoá vàng hình vân mây lượn sóng, điểm viên ngọc bích nhỏ tí hin. Rồi là những vòng đá, vòng bạc, điểm mai điểm thuý, điểm chim trĩ nhãn cẩn hạt cườm, trâm bạc cài đầu khắc bông sen. Thảy đều như mới. Thuấn giật mình, chẳng lẽ nhà nó nhiều của nả vậy mà nó không biết? Hay là…
“Chị sắp đi theo chồng hay sao mà ăn mặc lạ lùng vậy?” Thuấn hỏi. Đầu nó chỉ nghĩ đến mỗi viễn cảnh chị mình đi lấy chồng, dù gì thầy bu cũng đã hối thúc chuyện cưới sinh của Thường lâu nay rồi. Mỗi lần vậy, Thường cứ mãi ê a nào là thuyền quyên sánh với anh hùng chi chi đó, xong cứ nhẩn nha đến giờ.
Đáng buồn thay, Thường là thuyền quyên cái nỗi gì? Đẹp thì Thường cứ coi là đẹp, nhưng thuyền quyên còn nằm ở cốt cách, phải sinh ra trong nhà quan ông quan bà, nhất lý chi trưởng, làm cậu ấm cô chiêu, hai bên toàn kẻ hầu người hạ, rồi hẵng nói đến chuyện có phải tiểu thư đài cát hay không, sau đó mới đến xem thử có phải thuyền quyên hay không. Mà thị đừng tơ tưởng, sướng gì, hay hớm gì cái nỗi thuyền quyên, đời nó bạc lắm, nó không tha cho người con gái đẹp và tài đức đâu. Thôi, thị cứ làm dân nữ cho lành. Nhà này cũng có gia phong, thầy cũng là đồ làm sư, cũng gõ đầu trạng nguyên bảng nhãn, chứ có thua chị kém anh nào! Do cái thời cái thế loạn lạc nó chèn ép con chữ không cho lớn, phải, đang thời binh đao hỗn độn, con chữ không lớn nổi. Nhưng chẳng sao, đợi đến thời bình, những đồ những sư lại phất lên mấy hồi. Thầy đã nói rồi, chỉ cần bờ cõi này được bình định, vinh hoa sẽ lại về tay người có học ngay.
“Nỡm này… Nói gì thế hả? Cốc đầu cho bây giờ!” Nhắc chuyện cưới hỏi, có lẽ Thường thẹn, nhưng vẫn mủm mỉm cười, đoạn còn vén vén tóc mai dù chẳng có cọng nào bị lệch, “Nhưng đẹp không, giống quý nữ về nhà chồng không?”
“Thưa không, như bà Chúa nào ấy chứ không phải thiếu nữ, chị ăn mặc bình thường đã đủ đẹp rồi.” Thuấn lắc đầu nguầy nguậy.
“Bố khỉ…” Thường nhấn trán em trai, “Thôi được rồi, không đứng ở đây lươn khươn nữa, ngáng đường quá. Giúp chị gánh cái quang đặt trong chái ra, mỗi chị không đem hết được.”
“Đấy, vừa nãy còn bảo người ta vào ngủ!” Thằng bé liếc xéo chị. Quang còn lại không nhiều, mùi cỏ tươi ngai ngái. Thứ cỏ tươi non mềm mịn, mơn mởn này cho người ăn còn thích, huống gì cho trâu bò ăn. Nhưng sao nhiều cỏ thế nhỉ, và ai là người đã xắn tay nhổ hết đống này, nhà cũng chẳng có trâu bò gì, mà có đi chăng nữa thì cũng tự thả rông đi ăn, chứ bắt phát gom về rồi dâng tận miệng như quan như tướng thì làm gì có? Từ qua đến giờ mọi người cứ làm như có cổ bàn khoản đãi gì lớn lắm, đón nghè vinh quy thì không phải rồi, thời này ai mà tổ chức thi thố nữa, mà nghè thì cũng chẳng ăn cỏ, nghè ăn chữ thôi.
Nó xoay đầu lại, hỏi:
“Cỏ này đem bán hả chị?”
“Không đâu, cho ngựa ăn đấy! Không biết gì à, Bình Định Vương lập bản doanh chỗ mình. Làng nước đang góp sức nuôi quân.”
Thuấn há hốc mồm, định hỏi Bình Định Vương chị nói có phải Bình Định Vương mà ai cũng biết không, sao Thường nhắc đến Ngài ấy với cái vẻ qua loa đại khái như nhắc gã hàng xóm nào vậy. Mà Bình Định Vương ra Đông Quan làm gì, vào làng Bồ Đề làm gì? Dựa theo thế đất nơi này và tình cảnh đất nước hiện tại thì chỉ có một lý do duy nhất thôi…
“Chị cứ khéo trêu em!”
“Muốn trêu ai lại đem Vương ra trêu, có dở hơi không đấy!” Thường dẩu mỏ nhìn thằng bé kéo cái quang cỏ ra, “Không tin chứ gì, đi hỏi là biết thôi.”
Hỏi ai cơ, người lớn chẳng bao giờ nói chuyện dân tình thế thái với nó?
“Thế chị ăn diện như vậy là để Vương xem chắc?” Nói đoạn, Thuấn phụt cười. Ái chà! Ra thế, ra thế! Hôm nay trạch biết đẻ ngọn đa nhỉ? Dứt lời, Thuấn vội gánh cái quang lên vai, co cẳng chạy biến.
“Luyên thuyên!” Nóng mặt, Thường chồm tới vỗ mông thằng bé nhưng phát hụt, đành mắng vói [6].
À, vậy chắc không phải Vương, nhưng với Thường thì không vương cũng là tướng thôi nhỉ. Chắc là tướng tài nào đấy trong số quân ta.
Trước khi ra đến bên ngoài, thằng bé bỏ lại một câu, “Chị không hiểu tâm tư đàn ông, càng không hiểu tâm tư của anh hùng! Chị cứ bày biện vẽ vời ra những hình dong kỳ quặc, khoác nào là quần lãnh áo lương [7], thì còn khướt mà được những kẻ anh hùng quan tâm. Chị cứ là chị thôi, con gái nước mình sinh ra tự nhiên đã đẹp rồi, chị ạ!”
Thường sững lại, nghiêng đầu. Ừ, thằng nhóc này nói cũng đúng! Mà môi mép nó liến thoắng phát khiếp, ý thì chê mà chốt hạ lại như khen, nói vậy thì ai còn cãi được nữa hả giời!
2.
Nhong nhong nhong nhong… Mở đường cho ngựa Vương tiến tới nào, phải đấy, các người cứ nhìn đi! Dù chỉ là con ngựa, nhưng ngựa quý nhờ người cưỡi, kẻ đang ngồi chĩnh chện trên lưng ta đây là Bình Định Vương đấy. Oai phong không, ta là con ngựa oai phong nhất trong giống ngựa. Các người cứ trố mắt mà nhìn, cứ nhìn cho thật kỹ vào. Trống giong cờ mở đây nhé, tiền hô hậu ủng đây nhé, vó khoan vó nhặt đây nhé, lộc cà lộc cộc đây nhé! Ngựa chín hồng mao còn chẳng quý bằng ta, đúng là con ngựa có thừa hênh hoang trong giống ngựa.
Nhong nhong nhong nhong… Vó trước vó sau, Vương thúc dây cương, hây da, ngựa hí vang trời, động đến cao xanh! Vương ta đến đây để ép bọn Vương Thông trốn trong Đông Quan ra hàng, nếu chúng biết khôn ra hàng càng sớm thì càng có lợi cho chúng. Chứ lần lữa mãi, cứng đầu mãi thì ta sẽ một vó đạp nát óc chúng ra. Đừng nghĩ ngựa nước Nam thua ngựa phương Bắc, vật tốt hay không nhờ ở chủ chăm, người huấn luyện ngựa tốt ắt sẽ cho ra được những con ngựa dũng mãnh. Đại Việt cũng mấy phen giành lại độc lập từ trên lưng ngựa chứ đâu. Ngựa thời bình kéo xe đẩy hàng, dốc sức mình xây nền thịnh trị cho bá tánh, ngựa thời chiến ngang tàng dũng mãnh, xông thẳng vào gươm giáo quân thù để bình định giang sơn xã tắc. Người ta yêu Vương, ắt phải yêu thú cưỡi của Vương.
Nhưng thôi cà kê dê ngỗng thế đủ rồi. Nói tiếp các người lại bảo ta khoe mẽ. Tuy vậy, cá trong lờ đỏ hoe con mắt, cá ngoài lờ ngúc ngoắc muốn vô. Các người đừng nhìn những cái đẹp đẽ ta có mà nghĩ số ta tốt, đừng quên ta đã phải trải qua những gì để có được cái ngày vẻ vang hôm nay, và có thể tương lai ta sẽ còn phải chịu đựng những gì. Sướng thì chẳng thấy đâu, chỉ thấy kiếp trâu kiếp ngựa nó phải lao lung [8] thế rồi! Ta đã cùng Vương trải qua bao nhiêu trận chiến lớn nhỏ, đã vào sinh ra tử bao phen. Trận Tây Đô vừa rồi quân địch đánh rát quá, suýt thì chết, ta bảo ôi thôi thế là tiêu đời một con chiến mã, nhưng số ta nào dễ bị đánh gục đến thế. May sao, có tin từ trận Tuỵ Động gửi về, phiến quân thắng vẻ vang, ấy là nhờ mưu lược của Bình Định Vương và các tướng lĩnh của Ngài.
Xem đây, các ngươi thấy vết thương to đùng trên cổ ta chứ, ăn một giáo khủng khiếp. Lẽ ra ta phải gục ngay lúc đấy rồi, nhưng ta nào phải con ngựa tầm thường, ta quyết không để Vương ngã ngựa, bốn chân ta vẫn bám trên đất, vững như sắt như đồng. Dù bốn chân run lẩy bẩy, nhưng ta quyết không thành kẻ chiến bại. Ngược lại, cái đau và mùi máu chiến trường thúc ta lồng lộn lên, ta như con quỷ dữ, ta nghĩ nếu xác định là chết rồi thì còn gì để mất nữa đâu, nên quyết liều một phen. Ta cất vó, hý vang, mắt ta long sòng sọc và dường như cả cơ thể ta như bị thần nhập, lại xông đến.
Bình Định Vương ngờ ngợ rằng dường như ta không phải một con vật tầm thường. Đáng lý, ngựa bị ăn một vết chém khủng khiếp thế này thì chẳng ai muốn giữ lại. Nhưng khi thắng trận quay về, Ngài ấy liền gọi người luyện ngựa cùng các y sĩ đến, bảo:
“Phải dốc hết sức cứu con vật này. Nó không phải giống tầm thường!”
Ta có sức sống tiềm tàng, lại nhờ ơn mưa móc, rốt cuộc cũng vượt qua cảnh hiểm, sống vẻ vang đến hôm nay để thấy ánh mặt trời và hai gốc cây Bồ Đề khổng lồ kỳ quặc kia. Chứ láo lếu làm gì? Ngẫm xem, trận ở bến Bổng đội quân của Vương thu về hơn một trăm con ngựa, trong một trăm con, Vương chọn ra ta và một đồng đội khác để làm thú cưỡi. Nếu không phải đã nhìn thấy khí phách của ta thì Ngài có chọn ta cho nhiệm vụ quan trọng đến thế hay không?
Từ chiến thắng Tuỵ Động, nghĩa quân thừa cơ tiến ra Đông Quan, nhưng đám người trong thành cố thủ quá, nghe ngóng được là chúng đang muốn chờ viện binh sang. Tụi ta đành chọn thế đất tốt, lập bản doanh để đợi thời cơ thích hợp mà hạ thành. Riêng ta thì cầu cho chúng biết tự lượng sức mà ra hàng, chứ ta không muốn có một cuộc đổ máu nào nữa, thoát chết được lần một chứ khó mà thoát chết lần hai. Có khi, với vết thương trên cổ, ta không được Vương chọn để cưỡi ra trận lần tới, ta có thể đi cùng Ngài lúc bình thường, nhưng trong trận mạc thì e là khó lòng để cho Ngài chọn, dù được yêu được chuộng và có công cáng ít nhiều, nhưng nay, ta đã thành phế vật rồi.
Vậy thì sao chứ, hồi đại quân vượt đường sông ra Bắc, đem theo hai mươi con voi, lũ voi thì sồ sề, thân hình bồ tượng của chúng tuy lấn át kẻ khác nhưng lại chậm rì rì, nên Vương vẫn chọn ta làm thú cưỡi, chứ chẳng leo lên lưng tụi voi làm gì. Chỉ có ngựa mới thể hiện đủ cái uy nghi của anh hùng, thân ngựa chắc đậm, gọn ghẽ, người ta nhìn vào thấy cả người lẫn ngựa. Vật cưỡi là để tôn chủ nhân, chứ tụi voi thì bề thế quá, nết lại nhu nhược lào quào [9]. Các ông đấy, tôi nói các ông đừng buồn! Voi thua ngựa thì có gì phải buồn, các ông cũng giỏi nhưng giỏi theo một kiểu khác chúng tôi thôi.
Này, nhìn đi, cơ thịt tôi chắc như dây chảo, đấm vào đau cả tay, cục u nổi cộm như những cục đất, cục nào cục nấy đều được dân làng kỳ cọ cho bóng loáng. Đấm vào thân thể tôi như đấm vào vách đá. Các ông da thịt mũm mĩm, chảy xệ ra, nhăn nhúm, không được ưa chuộng bằng tôi cũng là lẽ thường. Lương dược khố khẩu [10], lời đắng nhưng ý ngọt, các ông cứ cố mà nghe mà thấm đã!
A, có người đem cỏ đến, từ xa đã nghe thấy mùi cỏ non tươi nức mũi, dân làng này thảo lảo quá, cái gì cũng đem cho! Ồ, một thằng bé đáng yêu, trẻ con ở đây cũng mến tướng quân chúng ta quá, hăng hái cắt cỏ, gánh cỏ nuôi ngựa của tướng quân. Phải rồi, chỗ đấy, cứ gãi nữa đi! Ta ở trong chuồng mãi cũng chồn chân lắm rồi, ta thèm được bay nhảy, nhưng số loài ngựa là phải ở trong chuồng, cũng đành vậy thôi.
Mi nói sao, bọn Vương Thông trong thành bắn thư ra à? Thư viết gì, xin hàng nộp thành chứ hả, hay chiêu an [11]? Nếu chiêu an thì không thành đâu, Bình Định Vương không bao giờ nhún nhường bọn xâm lược, trừ cái hồi còn yếu ớt nên buộc phải cầu hoà thôi. Cha chả, thư định ngày hàng? Nghe mùi biến báo nồng nặc chưa, rõ ràng muốn lần chần để đợi tiếp viện đấy. Ta hiểu, Vương buộc phải chờ thêm, đã đành. Bây giờ địch gửi thư ra thế rồi, chúng ta không hèn mà đuổi cùng giết tận được, dẫu thừa biết có keo kế chi đây. Không sao, Vương và quân sư của Ngài hẳn sẽ biết khi nào cần tiến và khi nào cần lui. Đâu đến lượt đứa con nít hôi sữa như ngươi phải lo lắng!
Ô hay, Vương đến kìa, nhóc, ngươi biết đấy là ai không? Bình Định Vương đấy, tướng quân của chúng ta đấy, sao ngươi không chào? Này ông giời con, đừng nói ngươi không biết Vương mặt ngang mũi dọc ra sao đấy nhé, ngươi đừng nhầm Ngài với một viên tướng bình thường, hình dong điệu bộ khác thường, tướng mạo uy vũ đến thế mà chẳng lẽ ngươi không nhận ra hay sao?
(Đây chỉ là một phần nội dung, toàn bộ nội dung truyện sẽ được in đầy đủ vào sách khi tác phẩm được lựa chọn.)
Chú thích:
[1] Nánh: tránh.
[2] Giăng: trăng.
[3] Mê: mơ.
[4] Hiêng hiếng: ngước (mắt) nhìn lệch về một bên.
[5] Tế nhuyễn: chỉ chung những đồ vàng ngọc trang sức quý giá và quần áo dễ đem đi. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có viết: “Đồ tế nhuyễn, của riêng Tây,/ Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham.”
[6] Vói: với.
[7] Lương: hàng dệt bằng tơ mỏng.
[8] Lao lung: cảnh bị bó buộc, mất tự do.
[9] Lào quào: làm việc một cách qua quýt, đại khái cho xong chứ không ngẫm nghĩ kỹ.
[10] Lương dược khố khẩu: Điều ngay thẳng gây khó chịu, ít được chấp nhận, nhưng cố gắng nghe và làm theo thì dễ được việc, ví như thuốc tốt thì làm đắng miệng, nhưng chịu khó uống lại khỏi bệnh.
[11] Chiêu an: kêu gọi kẻ địch đầu hàng.
__________
Nếu bạn yêu thích tác phẩm Nhong Nhong Nhong Nhong hãy bình luận nêu cảm nhận cho chúng tớ biết nha.
Bình luận
Chưa có bình luận