Tư liệu tham khảo:
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư.
An Nam Chí Lược.
Thông Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục.
Việt Nam Sử Lược.
Việt Sử Tiêu Án.
Giới thiệu:
"Năm ấy thân trai đem xương máu đáp đền nợ nước.
Năm ấy hồng nhan bạc phai má đào bồi đắp non sông.
Năm ấy có người trở về ca khúc khải hoàn.
Năm ấy có kẻ biệt bóng trong khói bụi viễn chinh."
Lưu ý: Truyện lấy cảm hứng từ những sự kiện và nhân vật có thật trong lịch sử Việt Nam vào thời nhà Trần khoảng năm 1285, trong trận chiến chống quân Nguyên-Mông. Tuy nhiên có một vài nhân vật và tình tiết hoàn toàn hư cấu, mong quý độc giả không đánh đồng với chính sử và tác phẩm cũng không có giá trị nghiên cứu.
________
I. Chiếc bách lênh đênh sóng dập dìu
Độ Tháng Năm, nắng hạ bắt đầu lần mò khắp ngõ ngách. Tín phong đưa mùi xoài chín, hương cỏ cây lan đầy trong không khí. Hoàng hôn giăng đỏ bầu trời, ráng chiều phủ xuống nhân thế rồi tàn dần trên dòng Nhị Hà [1].
Khúc sông này có nhiều vong lắm. Người chết trẻ đầy oán niệm, kẻ lại thác đúng giờ thiêng, không siêu thoát được nên ngụ lại lôi kéo người hợp tuổi hợp mệnh xuống thế mạng, mãi rồi thành vòng lặp. Nghe đâu sau khi chết tròn năm mươi năm mà vẫn chưa có cơ hội đi đầu thai, vong hồn sẽ trở thành quỷ dữ, mãi mãi bị trói buộc với con nước lạnh căm.
Tôi giang tay ra hứng mấy giọt sáng lờ mờ may mắn xuyên qua được mặt nước, nhẩm tính xem bản thân đã ở đây được bao lâu.
Mười năm.
Hai mươi năm.
Ngót bốn mươi chín năm.
À, thì ra là sắp đến hạn biến quỷ.
“Cô ơi… Cô ơi…”
Tôi vẫn đứng sững mặc cho tiếng gọi quen thuộc không ngừng văng vẳng bên tai, mãi đến khi đám ma da xung quanh rục rịch bơi về phía giọng nói kia thì mới quay phắt sang lườm chúng cảnh cáo.
Mặt Trời khuất hẳn sau núi, tôi ngoi đầu lên khỏi mặt nước, nương theo ánh trăng nhìn về phía người đương ngồi sát bên mé sông. Đó là một ông lão chắc đã qua ngưỡng lục tuần, râu tóc lốm đốm bạc, đôi tay xương xẩu chống lên bờ cứ run rẩy thể như sắp gãy gập đến nơi. Lão chồm mặt xuống, nhẽ là muốn xuyên qua mặt nước để tìm kiếm thứ gì dưới sâu.
“Cô ơi, cô lên đây, cô đến gần đây một chút được không?” Lão gọi.
Suốt gần hai năm, chiều nào lão cũng đến khúc sông này gọi tôi, còn tôi chỉ ngoi lên rồi lẳng lặng nhìn chứ chưa bao giờ đáp lại lời lão. Song, hôm nay thì khác. Có lẽ vì nhác thấy tấm lưng lão đã cong vòng, giọng nói lão khàn đặc và mái tóc cũng bạc hơn hẳn hai năm về trước, nên tôi vô thức bơi đến gần sát bên bờ. Thấy nước động, ông già ngẩng đầu, gương mặt đầy nếp gấp cũng không che được vẻ khấp khởi vui mừng. Mắt lão xoáy thẳng vào mắt tôi. Dưới mấy vết chân chim đồi mồi, đôi con ngươi ấy đã đục ngầu, mờ mịt đi cả. Lão cứ thế nhìn tôi, còn tôi lại chẳng phân biệt nổi cái nhìn ấy là bi ai, khắc khoải hay rạng rỡ, thiết tha. Sao lão có thể ôm ấp nhiều cảm xúc đến thế? Tôi không đọc hết được, nhưng trông lão như vậy, lòng tôi cứ nao nao, tê rát.
Lão ngập ngừng cất lời hỏi tôi:
“Cô ơi, cô tên gì?”
Tôi lắc đầu. Không phải muốn giấu mà tôi thực sự chẳng nhớ, bởi ký ức của tôi đã sớm bị cái vong kéo tôi xuống thế mạng nuốt mất từ lâu.
“Cô có biết ma da muốn đi đầu thai thì phải tìm được kẻ chết thay mình không?”
Tôi biết chứ. Tôi còn biết bầy vong nước ở đây canh me lão đã lâu, chỉ chực chờ lão sẩy chân là chúng sẽ bâu vào lôi kéo, dìm lão xuống đáy sông ngay lập tức. Nếu tôi không ngăn cản, lão đã sớm chẳng còn mạng mà về.
“Cô có muốn đi đầu thai không?”
Tôi gật đầu, rồi lại lắc, rồi lại gật. Thoát khỏi cái nơi này ấy à, ai lại chẳng muốn, vậy thì tôi còn chờ đợi điều gì nữa kia?
“Dăm ba hôm nữa tôi quay lại đây trả cho cô một cơ hội đầu thai. Cô đừng phí hoài, cô nhé!”
Tôi ngẩn người, khi còn chưa tin được vào tai mình thì bóng lưng gầy gò ấy đã khuất bóng xa. Lão đi còn phải chống gậy, từng bước xiêu vẹo cứ thế tan dần trong màn đêm mênh mông.
Sao lại là trả mà chẳng phải trao?
.
.
.
Đầu Xuân năm Thiệu Bảo thứ bảy [2], giặc Thát xâm phạm lãnh thổ Đại Việt, vó ngựa phương Bắc giẫm nát cỏ nước Nam, những con sói thảo nguyên quyết chí bình định vùng đất màu mỡ. Tháng Hai, Chương Hiến Hầu Trần Kiện đầu hàng giặc Nguyên. Trước thế giặc như vũ bão, thượng hoàng và quan gia đành sai sứ thần sang trại Trấn Nam Vương để cầu hòa.
Trên con thuyền xuôi ngược từ Thiên Trường về Thăng Long ấy, món “lễ vật” quý giá nhất không phải thứ gì khác mà chính là công chúa An Tư, em gái út của thượng hoàng.
Trời về khuya, trên giá chỉ cắm vài ba cây nến, ánh lửa leo lắt tựa như có thể vụt tắt bất kỳ lúc nào bởi gió sương. Không gian xung quanh tĩnh mịch đến đáng sợ, chỉ có tiếng chim cú hai bên bờ lúc vang lúc tắt, dội vào lòng người bao phen bão táp phong ba. Canh tư, ngọn lửa còm cõi cuối cùng cũng tắt ngấm, giờ đây chỉ còn biết nương nhờ, bấu víu vào trăng trên cao. Men theo ánh sáng mờ nhạt, chàng thấy bóng lưng người con gái mỏng manh, yểu điệu hệt vầng trăng hiện lên bên mạn thuyền.
Giữa xuân, tiết trời ấm áp hơn hẳn. Thiên Mạc [3] mới tháng Chạp năm ngoái thôi còn cuộn mình dữ dội, nay đã yên ả trông thấy. Con nước lặng lẽ trôi, dập dìu, hiu hắt, vỗ vào mạn thuyền những tiếng rì rào nhẹ bẫng. Âm thanh của nước, của gió hệt như tiếng đàn ca trong buổi yến tiệc năm nào.
Lầu son rực rỡ, người đông như nêm, lưỡi kiếm sáng choang, thiếu niên anh tuấn biểu diễn một điệu góp vui trước bậc cha chú. Thiếu niên mới mười ba, mái tóc chưa pha sương gió, bóng lưng chưa vướng bụi trần, ấy thế mà khí phách chẳng chút thua kém so những trang anh hùng hào kiệt đang ngồi ở đây. Chàng trai năm ấy với đôi mắt sáng như sao trời mùa hạ, đã trầm lặng chảy vào lòng An Tư những gợn ái tình rất đỗi dịu êm.
An Tư lắc nhẹ đầu, cho rằng như thế mới có thể rũ đi những suy nghĩ không yên, để gió thôi hát về miền ký ức mà nàng cố chôn giấu. Chỉ đêm nay nữa thôi, thuyền lớn xuôi dòng đã nhiều ngày sẽ cập bến. An Tư về với Thăng Long, song cũng bước vào lòng giặc, trở thành cống phẩm cho bọn Thát Đát [4]. Một khi trời tỏ, nàng không được phép, cũng chẳng còn tư cách để mà thương nhớ, giữ rịt hình bóng người ta trong lòng nữa rồi. Nhưng rõ ràng đã dặn lòng phải quên, dặn lòng chôn chặt những hoài niệm vào nơi sâu kín nhất, vậy mà kỷ niệm cứ cuộn trào như cơn lũ quét, khiến con đê mong manh trong lòng nàng vỡ tan.
Chao ôi, nếu mai này nàng biệt tin hẳn, liệu cả quãng đời còn lại, người nọ có để riêng ra một góc nhỏ bé nào để nhớ về nàng không?
"Công chúa vào trong đi thôi. Ngoài này sương gió, người sẽ ốm mất."
Giọng nói khàn khàn, như đã nhiều ngày dãi nắng dầm mưa vang lên từ phía sau, khiến An Tư giật mình. Nàng quay lại, cố nặn ra một nụ cười đối diện với người vừa khoác áo choàng lên vai mình.
"Anh không phải lo, chút gió đêm thế này, làm sao so được với cái khổ mà quân ta đương phải chịu ngoài kia.”
“Bọn tôi thân trai, gánh vác gian truân khó nhọc là điều nên lẽ phải. Nhưng công chúa đây…”
Chưa nói hết câu, thốt nhiên chàng im bặt. Bởi lẽ sau đêm nay, chàng có chở che cho An Tư khỏi sóng gió, khổ cực được nữa đâu? Trong đôi mắt sáng ngời của thanh niên, nỗi đau và cơn giận thi nhau bập bùng cháy. Có lẽ chàng đớn, vì không bảo vệ được nàng giữa loạn lạc, như đàn ông phải bảo vệ phụ nữ, như kẻ si tình phải bảo vệ người mình yêu. Có lẽ chàng căm, vì chẳng thể tự tay giết sạch quân Thát, trả nợ nước báo thù nhà, để thân gái như nàng không phải lênh đênh giữa bầy giặc giã.
Dưới ánh trăng yếu ớt, sống lưng thẳng tắp của người con trai ấy cứ cong dần, giọng nói chàng cất lên đầy đớn đau và chua xót:
“Dương [5] tài hèn sức mọn, không thể cản được cơn sóng dữ. Nay chỉ xin đành cúi đầu tạ tội với công chúa.”
Khóe mắt An Tư đỏ hoe, nàng cố ngăn không cho lệ trào, không cho bản thân yếu lòng mà lao vào vòng tay người thỏa thuê nức nở.
“Trung Hiếu Hầu [5] đừng làm thế mà phải tội tôi, ngài nào có lỗi lầm gì. Con tạo an bài, vận mệnh trêu ngươi, lỗi nằm ở lũ giặc ác chứ đâu ai khác nữa! An Tư hưởng đức trạch dày rộng của thiên tử bấy nhiêu năm đã nhiều, đến lúc trả ơn, tôi không cho đó là nỗi bất hạnh của mình. Dù gái hay trai, ai cũng đều nên gánh vác trách nhiệm gìn giữ non sông, cơ đồ Đại Việt, không phải sao?”
Cổ họng nàng đắng nghét nhưng vẫn cố giữ giọng nói bình thản, điềm nhiên. Thế giặc hung mãnh, đánh phá Chiêu Lăng [6], đi đến đâu lại tàn sát, cướp bóc đến đấy. Nay thấy Thăng Long trống trơn, hoàng thành chỉ còn lại chiếc vỏ rỗng, Thoát Hoan phẫn nộ sai quân đuổi tận, thề bắt cho được thượng hoàng và quan gia. Chui vào lòng giặc lúc này chẳng khác nào dâng mình cho sói dữ. Song, An Tư đâu hãi hùng cái chết, cũng chẳng nề hà khổ nhọc gian truân, nàng chỉ sợ một mai không về được nữa, Trần Dương rồi sẽ vĩnh viễn quên nàng.
Nàng nhoẻn cười, nói lảng sang chuyện khác, để hình ảnh cuối cùng về bản thân in dấu thật đẹp trong mắt chàng, cũng để thanh niên ấy thôi dằn vặt, tự trách.
“Mới giáp năm đây mà thấm thoắt đã chuyển giữa xuân, độ đôi tháng nữa vùng cao vào mùa đỗ quyên, hẳn là đẹp lắm. Tôi còn nhớ mãi đóa hoa đỏ rực ngày xưa ngài mang từ Tây Bắc về đấy!”
“Đợi năm sau, tôi đưa công chúa đi ngắm hoa.” Dương đáp.
Đợi được không, An Tư chẳng rõ. Nàng nói tiếp, lệ đã chực trào:
“Năm sau, năm nữa, rồi lại nhiều năm… Nhỡ tôi không về mà trong cả quãng đời đằng đẵng, ngài còn gặp hoa ban, hoa đào, hoa mận, hàng trăm đóa hoa tươi đẹp khác, liệu khi ấy ngài còn nhớ đến đỗ quyên chăng? Hay ngài rồi sẽ quên đi mất?”
“Ban đào dẫu có đẹp, nhưng lòng Dương trót chỉ thương mến đóa đỗ quyên năm nào. Xin công chúa yên lòng chờ đợi, chớ lo gì đến việc mai sau.” Chàng quả quyết.
Nhác thấy vẻ kiên định, thiết tha từ đôi con ngươi sâu thẳm ấy, An Tư chẳng còn cầu gì hơn nữa. Nàng không tham lam mơ được trở về trong ngày khải hoàn, chỉ những mong Dương sẽ không bao giờ quên mất mình, quên mất ước hẹn ban sơ.
Cả hai cứ đứng đó lặng thinh hồi lâu. Đến khi trăng mỗi lúc một cao, An Tư mới buông tiếng thở dài:
"Sương rơi rồi, tôi phải vào trong, ngài cũng nghỉ sớm đi thôi.”
Dứt lời, nàng quay lưng bước đi, mặc cho người ở phía sau nỉ non gọi với:
“Kiều…”
Dương chẳng có mấy cơ hội được gọi tên húy của nàng. Lần này, hẳn cũng là lần cuối.
Chàng cứ đứng đó mãi, đau đáu ngóng nhìn bóng lưng nàng dần khuất dạng. Khi chỉ còn lại mỗi một mình với ánh trăng đêm, Dương ngồi thụp xuống, tựa vào thành thuyền. Bàn tay chàng nắm chặt lại, liên tục đấm vào cột buồm đến khi da thịt nứt toác.
An Tư còn trẻ, nàng mới mười bảy. Như đóa hoa chớm nở còn đọng vệt sương sớm. Như vầng trăng non e ấp giữa chốn mây. Như cơn gió xuân đương chơi đùa với cỏ cây mơn mởn. Ấy thế mà chiến trận đảo điên, thế gian ly loạn, hoa sắp tàn, trăng sắp tản và gió xuân cũng tan trong đôi hàng nước mắt người bạc mệnh.
Không! Đáng nhẽ kẻ hy sinh phải là Dương mới đúng! Chàng nguyện dâng trọn mạng sống bé mọn của mình để thay An Tư gánh lấy tất thảy những khổ đau. Giá mà chàng tài giỏi hơn. Giá mà chàng có năng lực to lớn. Giá mà chàng dời được non lấp được bể. Giá mà chàng đủ bản lĩnh để bảo vệ được người chàng thương.
Thanh niên ngay từ buổi đầu bước chân ra chiến trường, chưa một lần sợ hãi dẫu cho có đối đầu với trăm quân vạn mã, nay chẳng hiểu vì cớ gì lại cứ run rẩy theo từng đợt sóng vỗ vào nơi mạn thuyền.
Phải chăng thuyền quyên cũng có thể can trường, mạnh mẽ?
Phải chăng anh hùng cũng biết khóc, biết đau?
Chú thích
[1] Nhị Hà: Tên gọi của sông Hồng từ thời thuộc Minh trở về trước.
[2] Năm Thiệu Bảo thứ bảy: năm 1285.
[3] Thiên Mạc: Tên cổ của một đoạn sông Châu vào thời nhà Trần.
[4] Thát Đát hay Thát: theo chú thích của Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, đây là phiên âm của từ “Tatar”, tên gọi chung của các bộ tộc Đột Quyết, Mông Cổ, Thanh Tạng. Sử cũ vẫn thường dùng “Thát Đát” hoặc “Thát” ý chỉ quân Nguyên - Mông.
[5] Trong bản dịch An Nam Chí Lược, phần Các khoản chuyển vận quân lương ra mặt trận, Lê Tắc chép rằng nhà Trần sai Trung Hiến Hầu Trần Dương làm sứ giả xin hòa giải với quân Nguyên, song điều này lại mâu thuẫn với phần Sứ thần các triều đại trong cùng đầu sách, người làm sứ giả lại được chép là Trung Hiếu Hầu Trần Thang. Tác giả xin mạn phép sử dụng hình ảnh hai nhân vật trên để tạo ra một nhân vật không có thật trong lịch sử là Trung Hiếu Hầu Trần Dương.
[6] Chiêu Lăng: nơi an táng của các vị vua nhà Trần.
II. Thuyền trôi lạc dòng bến cô liêu
"Hay là anh xin ở lại Thăng Long, đừng đi đâu nữa được không? Anh luyện quân biền biệt năm tháng, phương xa nắng gió, ở lại ngóng mãi cửa Bắc chờ tin, lòng em không sao yên nổi."
Dương vén sợi tóc mai đương lòa xòa bên má An Tư, nhẹ giọng an ủi nàng: "Quân Thát chưa bao giờ thôi mộng thôn tính cả Đại Việt ta, sợ rằng chẳng bao lâu nữa lại xảy ra chiến loạn. Việc nước khó thoái thác, công chúa đừng lo, anh sẽ đánh tin về đều."
An Tư ngước lên nhìn người đối diện, đôi mắt mờ mờ hơi sương, nỉ non: "Thế nhỡ một mai binh biến loạn lạc, chúng mình sẽ phải xa rời nhau à?"
Chàng trai trẻ có nước da màu đồng phì cười trước câu hỏi ngô nghê của An Tư, bèn đưa tay lên búng nhẹ mũi nàng.
"Đúng, nhưng không phải mãi mãi, công chúa ạ! Đợi khi quét sạch bóng quân thù, trả lại giang sơn Đại Việt cảnh thái bình, anh sẽ về với em.” Chợt, chàng hắng giọng, ra chiều nghiêm túc. “Công chúa có tin thần không?”
An Tư chớp mắt, gật đầu. Nàng biết đâu câu hứa tưởng như để vỗ về đáy lòng đương bất an ấy của mình, Dương lại sâu nặng ôm lấy trọn cả kiếp người.
"Tết Nguyên Tiêu anh nhớ về đưa em đi vãn cảnh đấy!"
"Ừ." Hắn đáp, nhìn vào đôi con ngươi ánh lên những tia sáng mơ màng của An Tư. "Mình sẽ cùng ngắm đèn Quảng Chiếu [1], đầu hạ anh đưa công chúa lên núi xem đỗ quyên, thu sang lương nguyệt [2] thì tham gia hội săn, đông đến lại ôm lấy nhau sưởi ấm. Cứ thế bình lặng trôi qua hết cả một đời.”
“Ai muốn ôm anh cả đời kia chứ!”
Ánh tà dương buông mình bên kia ngọn đồi, ráng chiều nhuộm con nước thành màu hoe đỏ, hệt như gò má thiếu nữ đương say tình trên thảm cỏ xanh non.
An Tư giật mình sực tỉnh. Lại giấc mộng đó. Kể từ ngày theo thượng hoàng và quan gia về đến Thiên Trường, nàng chưa bao giờ thôi mơ về Thăng Long, về thuở giang sơn Đại Việt hãy còn yên bình, thuở nàng vừa bước sang tuổi cài trâm và người đó chỉ là thiếu niên mới kinh qua trận mạc.
Kỷ niệm quả thật là thứ có thể giết chết trái tim một người.
Thuyền cập bến, các nữ tỳ tất bật thay xiêm áo, điểm trang, lại đeo cho nàng một tấm mạng che mặt. Chừng xong hết cả, chúng mới đỡ nàng xuống thuyền, lại chỗ đoàn người ngựa đương đợi sẵn.
Thăng Long đây rồi! Nhà của nàng đã ở ngay trước mắt. Nhưng cớ sao từng nhánh cây ngọn cỏ, từng đường lớn ngõ nhỏ vốn quen thuộc trong ký ức, bây giờ trông lại quá đỗi xa xôi? Mùi tanh của máu quyện cùng mùi khói, ám đậm giữa không trung, khiến lòng người ngổn ngang trong vô thức. Tịch dương nhuốm màu đỏ thẫm, là màu trời hay huyết lệ ai đang đổ, An Tư cũng chẳng hay. Thăng Long vẫn là Thăng Long đó, nhưng đã không còn là nhà nàng.
Vó ngựa Mông Cổ dám dày xéo đất thiêng, những con sói dữ thảo nguyên thích thú cắn xé con dân vô tội muôn đời thuần phác. Mực đen tđã hích lên tay lời thề “sát Thát”, Đại Việt rồi đây ắt sẽ đòi lại bằng được món nợ máu xương!
Đường về kinh sư không thiếu trại giặc, Thoát Hoan đã khống chế cả hoàng thành, bắt đầu chuyển quân xuôi Nam truy bắt thượng hoàng và quan gia. Khi An Tư theo đoàn sứ ngược về Thăng Long, thuyền ngự cũng bắt đầu rời Thiên Trường. Tin tức bí tắc, song nàng vững tin rằng thượng hoàng và quan gia sẽ luôn bình an.
Cống vật đã chuyển hết khỏi thuyền. Thấy Dương cứ lặng thinh đứng cạnh đầu ngựa, phó sứ mới đến gần chàng, cất tiếng:
"Bẩm, chúng ta phải mau đến đại trại quân Nguyên trước khi trời tối.”
Lời nói của y như mũi dùi bén nhọn đâm vào lòng thanh niên. Dương siết chặt nắm tay, bầu trời phía sau lưng chàng âm u, tối mịt. An Tư cúi thấp đầu, không dám đối diện với tầm mắt của Dương thêm phút giây nào nữa. Nhác thấy bọn hầu đã đỡ nàng vào kiệu, chàng mới xoay mình, thoắt lên lưng ngựa.
"Xuất phát."
Thanh âm dõng dạc vang giữa không gian yên tĩnh, đìu hiu, đánh động cả bầy chim đang vội tìm về tổ. Vó ngựa lộp cộp dẫm lên mảnh đất kinh sư, hướng về phía bầu trời ngập bóng mây. Quầng sáng từ vầng dương rạn vỡ bọc lấy bóng lưng thanh niên, vững chãi và kiên định. Gió thổi, đưa giọt lệ cay nồng rời khỏi khóe mắt, thấm lên vạt áo tối màu. Chẳng một ai hay.
Đi chừng nửa ngày đường, đoàn sứ cũng vào đến nội thành. Quân Nguyên tra xét kỹ lưỡng cống phẩm, những cặp mắt diều hâu như muốn lật tung khay tráp, soi từng nén vàng, vạch từng mảnh lụa. Rồi, chúng nhìn sang An Tư - “món” cống phẩm giá trị nhất. Nàng không biết tiếng Thát, nhưng có thể ngầm hiểu thông qua thái độ hiển hiện rõ ràng trên gương mặt chúng. Những nụ cười đê hèn, những ánh mắt khinh miệt, những cử chỉ lộ liễu. Chúng nghĩ chỉ có như thế mà đã khiến nàng hãi hùng được ư?
Không! Hãi hùng thật sự là khi chứng kiến cảnh vó ngựa man rợ dày xéo nước nhà, Thăng Long bị đốt phá. Là mỗi ngày nghe tin từ vùng chiến loạn, người ngã xuống, kẻ bị thương, đứa trẻ nào vừa mồ côi thầy mẹ, vợ của ai phải buộc vội khăn tang.
Giữa xuân, hương thơm của đất trời cũng không che đậy nổi mùi tội ác thối rữa. Liệu phải đổ bao nhiêu máu, Đại Việt mới gột bằng sạch chúng đây?
***
Đêm khuya thăm thẳm, An Tư ngồi một mình trên trường kỷ, tay nắm chặt lấy gấu áo. Cạnh nàng không còn lấy một người thân quen, ngay cả nữ hầu cũng được đưa đi nơi khác. Tiếng bước chân mạnh mẽ từ đâu vang lên ngày một gần, tấm mành bị vạch ra một cách thô bạo, trước mắt An Tư bây giờ là con trai của Khả Hãn Hốt Tất Liệt - Trấn Nam Vương Thoát Hoan.
Y trông có vẻ trạc tuổi các anh của nàng, thân hình vạm vỡ, đôi mày trợn ngược toát ra vẻ ngông nghênh, ngang ngược. Thoát Hoan nâng tay giật phăng tấm mạng trên mặt An Tư, nhìn xuống nàng như nhìn một thứ thấp kém, mở miệng xì xồ điều gì đó. Rồi sực nhớ ra nàng không hiểu tiếng dân tộc mình, y mới lặp lại lần nữa bằng ngôn ngữ của người Tống:
“Giai nhân An Nam, âu cũng chỉ đến thế.”
Dứt lời, y lại tiếp tục nhìn chòng chọc vào nàng, như thể chờ đợi sự nhục nhã, tủi hổ nảy trên gương mặt trẻ dại. Song, đáp lại “thịnh tình” đó, thiếu nữ chỉ thản nhiên trả lời:
“Thứ lỗi An Tư tướng mạo tầm thường, làm bẩn mắt đại vương. Các chị của tôi tài sắc vẹn toàn, dung mạo như tiên, chỉ tiếc giai nhân đều đã nên duyên anh hùng. Cả tông tộc cũng chỉ còn mình tôi chưa từng cưới gả.”
Dưới dáng vẻ nhún nhường ấy là từng câu từng chữ cất giấu sự kiên cường, kiêu dũng. Không sai, chính là cái vẻ kiêu dũng của quan quân nhà Trần mà Thoát Hoan vốn ghét cay ghét đắng! Y nheo mắt, đột ngột túm lấy An Tư nhấc nàng lên cao, gằn giọng:
“Ý của mi là ta không phải anh hùng nên không xứng với các hoàng nữ khác, chỉ có thể nhận lấy thứ cống phẩm rẻ mạt như mi thôi đúng không?”
Thoát Hoan bóp chặt cổ An Tư, nhếch môi nhìn nàng vẫy vùng vì thiếu khí. Không lồng lộn cũng chẳng nổi điên, y lạnh lùng như thể chỉ đang bóp nghẹt con sâu cái kiến. Nhưng dần dần, nét mặt hờ hững ấy bỗng nổi lên chút hứng thú nhợt nhạt khi thiếu nữ nhỏ yếu không hề tỏ ra sợ hãi mà chỉ mở mắt trừng trừng nhìn y.
Bàn tay to lớn mở ra, An tư ngã vật xuống đất, ôm ngực thở gấp. Nhịp tim còn chưa kịp chậm lại, Thoát Hoan đã túm kéo nàng lên giường. Khi cơ thể to lớn đổ ập lên thân hình mảnh mai, An Tư nghe thấy y sung sướng cười vang bên tai mình:
“Đợi ngày ta lấy đầu Trần Nhật Huyên [3], khiến cho lũ man di phải quỳ gối thần phục Khả Hãn, bọn mi sẽ biết ai trang anh hùng, ai kẻ tiểu nhân.”
Đêm ấy, mảnh trăng vỡ làm đôi, tiếng khóc ai oán chia dòng Nhị Hà thành hai ngả.
Chú thích
[1] Trồng đèn Quảng Chiếu: Một phong tục có ở nước ta từ thời Lý-Trần. An Nam Chí Lược, phần Phong tục chép rằng “Đêm Nguyên Tiêu (Rằm Tháng Giêng), trồng những cây đèn ở giữa sân rộng gọi là đèn Quảng Chiếu, thắp đến mấy vạn ngọn, sáng rực cả trên trời dưới đất, thầy tu đi quanh tụng kinh Phật, các quan liêu lễ bái, gọi là chầu đèn”.
[2] Lương nguyệt: chỉ tháng Mười Âm lịch.
[3] Trần Nhật Huyên: tên khác của Trần Thánh Tông, được An Nam Chí Lược ghi chép lại. Có lẽ là tên dùng khi ngoại giao với phương Bắc.
(Đây chỉ là một phần nội dung, toàn bộ nội dung truyện sẽ được in đầy đủ vào sách khi tác phẩm được lựa chọn.)
__________
Nếu bạn yêu thích tác phẩm Muôn trùng sóng dữ hóa giọt lệ châu, hãy bình luận nêu cảm nhận cho chúng tớ biết nha.
Bình luận
Lê Minh