HVTĐ21 - MỘT TIẾNG TRỐNG QUÂN (1) - THẤT TỊCH


Tư liệu tham khảo:

Đại Việt sử ký toàn thư;

Làng xóm Việt Nam - Nếp cũ (Toan Ánh);

Thơ văn Lý - Trần tập 2;

Tạp chí khoa học trường ĐH Sư phạm TP.HCM tập 14, số 4b.


Giới thiệu:


Họ sinh ra và lớn lên khi chiến tranh chỉ còn trong lời kể của những cụ già trong làng. Đất nước thanh bình, trăm họ yên vui. Ngỡ rằng từ đây đôi lứa đã có thể nên duyên vợ chồng thì bóng tối của chiến tranh nhanh chóng phủ trùm lên từng tấc đất quê mẹ. “Vó ngựa Mông Cổ đi đến đâu, cỏ không mọc được đến đấy.” 


Trong thời khắc sơn hà nguy khốn, ai có thể nhắm mắt làm ngơ chỉ để vui vầy duyên đôi lứa? 


Người cầm vũ khí xông về phía trước dẫu biết trập trùng hiểm nguy với một ý chí liều chết, chỉ vì để bảo vệ những gì đã ở lại đằng sau. 


Lời hẹn thề thuở ấy, có người không dám nhớ! 


Lời hẹn thề thuở ấy, có người chẳng đành lòng quên!


Lưu ý: 


- Truyện mượn bối cảnh lịch sử của cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên lần thứ hai của quân dân nhà Trần, ngoài những nhân vật lịch sử được chú thích, các tình tiết và nhân vật còn lại đều dựa trên sự tưởng tượng của tác giả. Truyện có chứa các tình tiết hư cấu, không phải chính sử vui lòng không đánh đồng với chính sử. 


- Những lời hát đối trong truyện được tổng hợp từ các điệu hát trống quân của làng Dạ Trạch (Hưng Yên) và các câu ca dao mời trầu dẫn trong Tạp chí khoa học trường ĐH Sư phạm TP.HCM tập 14, số 4b, “Hát mời trong dân ca đối đáp người Việt dưới góc nhìn văn hóa” - Nguyễn Thị Ngọc Điệp.


_____________

Anh đi đường ấy xa xa,

Để em ôm bóng trăng tà năm canh.

Nước non một gánh chung tình,

Nhớ ai, ai có nhớ mình hay chăng? (2)


*****


Đường làng hôm nay vui đáo để!  


Đoàn người rước dâu rộn ràng cả một quãng đường dài. Nào là khăn áo chỉnh tề, nào là áo quần là lượt. Nào là những mâm trầu cùng cau, trà, rượu, bánh mứt, trái cây,… làm người ta phải trầm trồ, xôn xao. Cũng phải, đám rước dâu của nhà giàu nhất nhì làng này thì làm gì mà không náo nhiệt cho được. 


Ngày rước dâu, ngoài hai nhà trai gái náo nức thì đám trẻ con trong làng cũng nôn nao không kém. Từ đầu hôm sớm mai, khi gà vừa dứt tiếng gáy, người ta đã thấy cái đám nít ranh ấy tụ tập với nhau, ầm ĩ dễ đến mấy cái làng xung quanh cũng phải nghe thấy. Chúng hè nhau chăng sợi dây đỏ rực ngay trước lối vào nhà cô dâu, háo hức đợi đám rước của nhà chú rể đến. 


Người lớn trong làng nhìn đám trẻ nghịch ngợm song không ai lên tiếng ngăn cản hay quở trách chúng. Từ xưa đến nay, có đám cưới nào trong làng mà không có một đám con nít kéo tới chăng dây chặng đường náo nhiệt như thế này chứ. Huống hồ, cô dâu hôm nay lại là cô con gái út của ông thầy đồ nức tiếng làng trên xóm dưới. Lũ trẻ con trong làng này chín phần đều là học trò của ông nên đúng hôm nay đều lũ lượt kéo nhau tới đây cả. 


Người nhà chú rể nhìn thấy đám con nít đông đảo trước mặt nhưng vẫn không hề tỏ ra  nao núng. Ông lão dẫn đầu đoàn người, tay đang cầm bó hương ra hiệu lấy bánh kẹo đã chuẩn bị từ trước phát cho từng đứa. Tụi nhỏ nhìn bánh kẹo trong tay, rồi lại đưa mắt nhìn nhau một lượt. Thằng nhóc đứng đầu, có vẻ là thủ lĩnh của bọn nhóc, vẫn cầm chặt sợi dây trong tay nên đứa còn lại không dám thả sợi dây xuống. Một người khác trong đoàn rước dâu thấy vậy bèn cười xởi lởi lấy túi tiền giắt ở bên người, rút xâu tiền lẻ ra dúi vào tay từng đứa, niềm nở bảo tụi nó thả dây cho chú rể đi đón dâu để còn kịp giờ lành. Thấy tụi nhỏ còn chưa nhúc nhích, chú rể bèn bước lên trước, vờ lườm từng đứa rồi dõng dạc bảo:


- Mấy đứa còn không chịu tránh đường, lỡ mất giờ lành, anh không đón được vợ, anh mách thầy đồ xử tội từng đứa! Anh nhớ mặt cả đám hết rồi đấy!


Không biết vì nhà trai vung tay hào phóng hay vì sợ cái uy của thầy đồ, không cần nói tới lần thứ hai, cả đám đã tự giác thả dây xuống. Chúng cười lấy lòng với chú rể, tranh nhau nói những lời chúc mừng đám cưới, miệng đứa nào đứa nấy trơn như bôi mỡ. Chú rể hếch mặt lên có vẻ đắc ý lắm. Người làng vây xem thì cười rầm trời! 


Thằng nhóc là thủ lĩnh của đám trẻ không ở lại xem cảnh người ta làm lễ như mấy đứa khác, nó cất tiền xu vào túi, hớn hở cầm bánh kẹo men theo con đường đất nhỏ chạy thật nhanh về nhà. 


Đưa tiền cho mẹ xong, còn chưa kịp để bà kịp hỏi gì thì nó đã lật đật chạy ù qua căn nhà nhỏ cách đó không xa. Người còn chưa vào cửa, tiếng nó đã oang oang đi trước.


- Sao sáng nay mày không đi giăng dây đám cưới với tụi tao? Đã hẹn nhau từ trước rồi cơ mà! 


Đứa con gái đang nằm thiêm thiếp trên chõng, nghe tiếng bước chân chạy huỳnh huỵch bên ngoài rồi tiếng nói quen thuộc thì biết là bạn mình tới bèn yếu ớt mở mắt ra. Thằng bé bước tới gần, nhìn con bé mặt xanh xao như tàu lá chuối sau hè thì khựng lại. Vẻ trách móc của nó chuyển thành lo lắng:


- Mày ốm à?


Con nhỏ gật đầu. 


- Thế đã uống thuốc chưa? 


Con bé lại gật. 


- Mày đã ăn gì chưa?


Con nhỏ gật đầu rồi lại lắc đầu. Thằng nhỏ gãi tai: 


- Vậy là ăn rồi hay chưa ăn? 


Con bé nở nụ cười, khoe hàm răng sún mấy cái của mình, giọng thều thào:


- Tối qua ăn được một bát cháo. Sáng nay thì chưa kịp ăn. U để cháo dưới bếp nhưng tao ăn không nổi. 


- Thế u mày đi đâu rồi?


- U tao theo người ta qua làng bên đi cấy mạ từ sớm.


- Vậy mày đói không? Tao mang cái này qua cho mày nè!


Nói rồi, thằng bé đặt cái bánh xu xuê (3) và ít kẹo lạc, kẹo vừng vào tay con bé: 


- Tao đi giăng dây được bao nhiêu đây, để dành lại cho mày! 


- Mày ăn chưa? 


- Tao ăn muốn no kềnh bụng đây này! Cái này là phần của mày. 


Vừa nói thằng bé vừa khịt mũi, làm ra vẻ như ta đây đã ăn no bụng lắm rồi nhưng ánh mắt lâu lâu lại liếc cái bánh trên tay con bé, không giấu được vẻ thèm thuồng. Khi nãy trên đường chạy về nhà, nó không kìm lòng được nên đã ăn hết một cái bánh xu xuê rồi. Nhưng mà một cái thì làm sao đủ với một đứa đang tuổi ăn tuổi lớn như nó. Nó nuốt nước miếng, quay đầu đi chỗ khác. 


Con bé cẩn thận gỡ sợi dây màu đỏ buộc lớp lá dong bên ngoài, rồi đến lớp lá chuối bên trong. Cái bánh màu vàng hươm như nắng mới hực lên trên ruộng đồng mùa thu hoạch, nằm lặng yên giữa những lớp lá, ủ trong lòng không biết bao nhiêu những hương đồng gió nội của quê nhà. Con bé nhón lấy một góc bánh, đưa lên miệng. Cái dẻo quẹo của nếp, sần sật của sợi đu đủ và dừa, mềm mịn của đỗ xanh, bùi bùi của hạt sen như tan ra trong miệng. Tiếc là miệng nó vẫn còn đắng vì cơn sốt đêm qua nên chẳng nếm được vị ngọt ngào vốn có của bánh. 


Con bé đặt phần bánh còn lại vào tay thằng bạn. Thằng bé thắc mắc:


- Không ngon à? 


Con bé vội lắc đầu:


- Không, bánh ngon lắm! Nhưng tao bị ốm mà, ăn bấy nhiêu đây là no rồi. Mày ăn giúp tao đi. Chứ bỏ phí đồ ăn lại mang tội!


Thằng bé liếm môi, mắt không rời khỏi cái bánh:


- Cái này là tao giúp mày nên mới ăn phụ mày đấy nhé! 


- Ừ.


Thằng bé không khách sáo nữa, cầm lấy cái bánh. Chỉ một loáng là đã cả cái bánh to đã vào bụng nó. Nó liếm ngón tay, vẻ vẫn còn tiếc nuối và thòm thèm lắm: 


- Sao mà chợ làng mình chỉ bán bánh đa, bánh đúc,… chứ không bán bánh xu xuê để ăn cho thỏa mày nhỉ? 


Con bé che miệng cười khúc khích:


- Tại vì bánh này chỉ khi nào đám cưới người ta mới làm! 


- Vậy mày biết làm bánh xu xuê không? 


- Mấy bà, mấy cô, mấy chị làng mình ai mà chẳng biết làm! Rồi mẹ tao cũng sẽ dạy lại cho tao thôi.


- Vậy sau này, mỗi ngày mày đều làm bánh xu xuê cho tao ăn, được không? 


Con bé thấy thằng bạn nhìn mình với vẻ mong chờ nên cũng hồn nhiên gật đầu:


- Được, sau này nếu mày muốn ăn bánh xu xuê lúc nào thì tao sẽ làm cho mày lúc đấy! 


Hai đứa con nít nhìn nhau phá lên cười, hoàn toàn không hiểu bản thân mình đang hứa hẹn một chuyện nghiêm túc, có ý nghĩa chung thân trọn đời. Bánh xu xuê, bánh phu thê. Là bánh của tình nghĩa vợ chồng, của hứa hẹn dài lâu.


- Mà này, hôm nay mày kéo cả đám đi giăng dây trước cửa nhà thầy đồ, mày không sợ cái roi mây của thầy nữa hả?


Thằng bé nghe tới roi mây, mặt biến sắc, nhưng vẫn nói liều: 


- Sợ gì chứ! Cùng lắm thì tao không đi học nữa! Dù sao mấy cái chữ nghĩa thánh hiền gì gì đó cũng không ở trong đầu tao được nửa nén hương. 


Nói thật, cái chữ với thằng bé như con chạch trên đồng, lẩn trốn nhanh đến mức nó cảm thấy dù có đuổi theo cả đời này cũng không bắt được. Thế thì có khác gì nước đổ lá khoai. Chẳng bằng dùng thời gian đó mà đi câu cá bống trên đồng, đi khều mấy con chim hay làm tổ trên cây đa đầu làng còn vui hơn. 


- Vậy sau này mày không thi cử thì định làm gì?


- Không biết. Đường lớn còn có nhiều ngõ nhỏ, dù sao cũng không phải chỉ có học hành ra làm quan thì mới sống tốt được. Đúng không?


Con bé cái hiểu cái không, vẫn cười hiền, “Ừ” một tiếng thật khẽ. Dù thằng bé muốn làm gì, nó cũng sẽ ủng hộ đến cùng. 


Mà thật ra thằng nhóc cảm thấy mình không theo được con đường cửa Khổng sân Trình, không cất nổi con chữ thánh hiền nào vào đầu là bởi đầu nó vốn đã dành cho thứ khác mất rồi. 


Bình thường, nếu không có việc gì là nó lại chạy tót về phía cuối làng, nơi có căn nhà trơ trọi của ông lão cụt tay, để nghe ông kể chuyện. Ông không kể những chuyện cổ tích như các bà các mẹ trong làng, cũng không kể chuyện thánh hiền như thầy đồ, quanh năm suốt tháng ông chỉ kể mãi một câu chuyện về những năm Nguyên Phong đã qua. Về trận chiến Bình Lệ Nguyên giữa Đại Việt và giặc Thát, khi quan gia (4) thân chinh cầm quân nghênh chiến. Về những trận mưa tên trút như sao sa của kẻ thù. Về những xác người la liệt nằm đầy trên đất, nổi đầy trên sông. Và cả lời trấn an chắc nịch của Thái sư (5) khi ấy, không chỉ làm quan gia vững lòng mà còn tiếp thêm sĩ khí cho quân lính.


“Đầu thần chưa rơi xuống đất, bệ hạ đừng lo gì khác.”


- Ông thấy mặt quan gia và Thái sư rồi ư? 


Đó là điều rất nhiều người từng thắc mắc khi nghe ông lão kể lại những gì mình đã trải qua.


- Phải. Ta từng ở trong đội quân bảo vệ quan gia, từng tham gia trận chiến Bình Lệ Nguyên khi ấy, làm sao có thể không biết được chứ?


- Vậy tại sao ông lại về đây?


Mỗi khi nghe tới câu hỏi này, ông lão thường nhìn ống tay áo thõng xuống, treo tòng teng bên người, thở dài thật lâu: 


- Lá rụng về cội. Già rồi! Cũng mệt quá rồi!


Người làng đều bảo ông là gàn dở, chỉ giỏi bịa chuyện bịp được đám trẻ con mà thôi. Chẳng mấy người lớn nào tin lời ông nói cả. Một kẻ vì mâu thuẫn gia đình rời bỏ thôn làng từ lúc còn chưa thành niên, lúc quay về râu tóc đã điểm bạc, mặt mũi còn in hằn dấu vết của phong sương với một cánh tay đã mất, nghĩ sao cũng không giống người có thể gặp được quan gia, gặp được Thái sư, lại còn tham dự vào cả trận Bình Lệ Nguyên tang thương kia được. Chỉ có đám con nít, như thằng nhóc chẳng hạn, là có thể nghe ông kể đi kể lại những chuyện ấy hàng trăm nghìn lần vẫn không chán.


Nó từng nói với con nhỏ bạn thân của mình rằng sau này nó không muốn trở thành quan lớn gì cả. Nó chỉ muốn làm một người anh hùng, có thể cầm vũ khí đánh đuổi  tất cả bọn kẻ xấu lăm le muốn cướp nước. Như Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre đánh giặc. Hoặc như ông lão cụt tay kia.


Mà chuyện ở đời, có mấy kẻ anh hùng không phải trải qua số phận gập ghềnh, bi tráng! 


*****


Thời gian cứ thế thấm thoát trôi qua trên những liếp nhà sau lũy tre yên bình. Hai người cũng không còn là những đứa nhóc đầu trần chân đất, đội nắng đội mưa chạy nô giỡn trên đồng hoặc bá vai bá cổ nhau hồn nhiên trên con đường làng quanh co nữa. Thời gian hun đúc thêm cho cánh tay của người con trai thêm rắn rỏi. Thời gian cũng làm cho nét xuân thì của người con gái thắm lại hơn trong từng ánh mắt, nụ cười. Đã có nhiều thêm sự thẹn thùng và bẽn lẽn mỗi khi gọi nhau đi ra đồng, trong những ngày hội làng đông vui, trong những đêm hát trống quân rộn ràng cả một khúc sông. 


Cả năm vất vả, đám trai gái ở thôn quê cũng chỉ chờ đợi những ngày lễ, Tết để được xúng xính quần áo mới, đi xem hội, hát giao duyên. Họ chờ những đêm hát trống quân như đám con nít vẫn chờ mẹ đi chợ về. Cô bé con ngày nào còn nấp sau lưng các chị xem cảnh người ta hát trống quân, thoáng chốc đã trở thành cô gái nổi bật trong những đêm hội trống quân của làng. Mỗi khi cô xuất hiện trong đêm hội, đám thanh niên đều giành phần lên hát đối. Từng cái liếc mắt lúng liếng, nụ cười duyên khoe khéo mấy cái răng đen nhánh đều tăm tắp như hạt na, đến tiếng hát ngọt ngào của cô đều khiến người ta thấy xao xuyến trong lòng. 


- Đến đây muôn sự ngại ngùng,

Hát sao cho được thỏa lòng người xem.

Tôi ra đây cùng chị cùng em,

Tôi chào tất cả kẻ khen người cười.


Cô ngồi ngay ngắn trước cái trống được đặt trên đất, mỉm cười, đôi mắt đen láy chỉ nhìn về phía hắn trong đám người. Đám bạn thấy thế bèn đẩy hắn về phía trước. Nếu không phải cô rủ hắn đi cùng, có lẽ hắn chẳng bao giờ dám đánh tiếng gia nhập cùng đám trai làng. Cô nhìn vẻ lúng túng của hắn, bàn tay cô khẽ gõ từng nhịp trên sợi dây mây căng trên mặt trống, cất giọng:


- Tiếng đồn nhà chàng đất tốt trồng cau, 

Đằng trước lắm quả đằng sau cũng nhiều.

Sao anh đi hát tay không

Lấy gì đãi bạn hội cùng đêm nay?


Cô dừng lại chờ đợi. Đám đông cũng tập trung ánh mắt về phía hắn. Hắn gãi đầu, vẻ mặt ngô nghê đến tội. Mọi khi đi xem các anh các chị hát, hắn cũng thuộc nằm lòng không biết bao nhiêu câu hát rồi. Vậy mà không hiểu sao, tối nay, trong đầu hắn chẳng nhớ nổi dù chỉ một từ, không khác gì hồi bé mỗi lần bị thầy đồ gọi đứng dậy trả lời câu hỏi. Thấy hắn cuống đến sắp khóc, có người trong đám đông thương tình, nhắc khéo cho vài câu. Hắn cầm dùi, gõ gõ lên dây, tằng hắng rồi bắt đầu hát:


- Nhà anh có hai vườn trầu,

Vườn trước mới bói, vườn sau mới trồng.

Hôm nay đi hát tay không,

Những bạn má hồng anh khất đến mai.


Vất vả lắm mới hát xong thì thấy cô đã tiếp tục cầm dùi, nhẹ nhàng gõ lên dây lấy nhịp. Một tay cầm dùi trống, một tay cô lấy trong dải yếm ra một miếng trầu têm thật khéo.


- Trầu cau em sắp sẵn đây, trầu cau em sắp sẵn đây,

Có cơi trầu này hiểu tấm lòng nhau.

Trầu này trầu ước trầu ao,

Cùng trầu dải yếm anh ăn trầu nào?

Trầu này trầu ước trầu ao,

Trầu loan sánh phượng, trầu trao duyên tình.

Trầu này vừa đẹp vừa xinh,

Nhân lại gặp đức là mình với ta.

Trầu này têm tối hôm qua,

Giấu cha giấu mẹ em đem ra mời chàng.


Cô cười thật tươi. Lúm đồng tiền bên má cũng thật sâu. Ánh mắt lấp lánh như sao trên trời những đêm mùa hạ. Cô bé con vẫn theo chân hắn ra đồng bắt cá, bắt cua, trông chừng mỗi khi hắn trèo rào vào nhà người ta vặt trộm quả na, quả xoài, đã thay đổi từ lúc nào mà hắn chẳng hề hay biết? 


Cô đưa miếng trầu về phía hắn, chờ đợi. Hắn ngỡ ngàng đến nỗi đánh rơi cả dùi trống trong tay khiến cả đám hát hội và người vây xem cười đến nghiêng ngả. Gã thanh niên cơ bắp cuồn cuộn, có thể cầm rìu chẻ hết đống củi lớn trong nửa ngày, vậy mà không giữ được cái dùi trống chỉ nhỉnh hơn đôi đũa ăn cơm. Mặt hắn đỏ lựng tới tận mang tai. Trăng đêm rằm tháng Tám lại còn sáng như ban ngày, thể nào cũng bị cô nhìn thấy hết rồi. Thấy hắn nhận miếng trầu mà cứ ngây ra đó, cô còn đế thêm vào:


- Trầu này không phải trầu hàng,

Không bùa không thuốc sao chàng không ăn?


Hắn quên mất cả chuyện cả hai đang ngồi hát trống quân, cuống quýt phân bua.


- Không phải tôi không ăn mà tại vì… vì…


Hắn nhặt cái dùi trống dưới đất lên, ấp úng cả buổi trời không nói được thành câu. Rồi hắn đột nhiên đứng lên, bỏ chạy khỏi vị trí, lao ra khỏi hàng người đang vây xem. 


Hắn cắm đầu chạy một mạch, không biết mình chạy đi đâu, chỉ là muốn thoát ra khỏi đám người kia càng xa càng tốt. Xấu hổ quá! Lần đầu tiên đi hát trống quân lại làm trò cười cho thiên hạ mất rồi! 


Hắn men theo bờ sông, chạy một lúc, đến khi bình tĩnh thì mới dừng lại. Hắn ngồi bên bờ sông, chán nản cầm hòn đá tìm được trong đám cỏ, ném xuống nước. Mặt sông đang phẳng lặng, có thể thấy được cả vầng trăng tròn phản chiếu, phút chốc nổi sóng. Vầng trăng như vỡ ra làm trăm mảnh, theo sóng nước lăn tăn lan ra, vỗ nhẹ vào hai bên bờ. Mặt nước vừa thoáng yên tĩnh, mặt trăng đang tụ lại thì hắn lại ném tiếp viên đá thứ hai. Rồi thứ ba. Mãi đến lúc không biết đã ném đến viên đá thứ mấy thì một giọng nói trong trẻo vang lên:


- Anh định ném hết đá trên bờ xuống sông đấy à?


Hắn ngần ngừ cầm hòn đá trong tay, nhưng không ném xuống nữa. Không cần quay đầu lại, hắn cũng biết là ai đang đến:


- Sao lại chạy ra đây? Hội hát trống quân mới vừa bắt đầu mà!


Cô cười khúc khích, ngồi xuống bên cạnh hắn, chỉ vào dùi trống bị ném ở một bên:


- Anh cầm dùi trống chạy mất rồi, làm sao mà hát tiếp được nữa? Giờ người làng phải đi kiếm cái dùi khác thay thế đấy!


Liệu bây giờ hắn nhảy luôn xuống sông thì có đỡ xấu hổ hơn chút nào không? 


- Tôi… Vậy là tôi đã phá hỏng đêm hội năm nay của làng rồi phải không?


Cô gật đầu, vẻ mặt vờ nghiêm trọng nhưng ánh mắt đầy ý cười:


- Ngày trước, anh trốn bao nhiêu buổi học của thầy đồ để đi tắm sông, đi bắt cá, đi khều tổ chim ở cây đa, ở đình làng, mấy chục roi mây của u, rồi gậy của ông từ anh còn không sợ mà lại sợ phá hỏng hội trống quân của làng hay sao?


- Tôi… Tôi…


Hắn vò đầu bứt tóc, cười khổ. Hắn nào có sợ hội trống quân. Hắn là sợ cô gái hát trống quân ngồi đối diện mình đó chứ! Lời nói quẩn quanh ở đầu lưỡi nhưng không cách nào nói ra được. Mãi một lúc hắn mới khó nhọc cất lời:


- Rồi sao lại ra đây? Còn đêm hội…


- Anh cầm dùi chạy mất, em chạy theo định nói với anh trả lại cái dùi trống cho người ta hát tiếp. Nhưng mà đuổi theo không kịp.


Cô đưa cái dùi trống trong tay của mình lên, vẻ mặt bất đắc dĩ, thật thà thú nhận:


- Giờ là dùi trống mất cả đôi luôn rồi. Có lẽ năm sau chẳng ai dám mời tụi mình đi hát hội trống quân nữa mất!


Cô nhặt chiếc dùi hắn ném bên cạnh, gõ hai dùi trống trong tay mình vào nhau, tạo nên tiếng “lách cách” vui tai. Cô lấy nhịp rồi hát:


- Trầu này không phải trầu hàng,

Không bùa không thuốc sao chàng không ăn?


Giọng điệu nửa phần trách khéo nửa phần hờn dỗi: 


- Anh không muốn ăn trầu em têm là vì chê em têm trầu xấu phải không?


- Không phải! Trầu này mà xấu thì làm gì có trầu ai têm đẹp nữa! Tại tôi không nỡ ăn…


Hắn lại gãi đầu, không dám nhìn cô, giải thích. Lời giải thích vụng về nhưng khiến đáy lòng cô như có ai vừa ném một viên đá xuống, phút chốc nổi sóng. Đôi má thiếu nữ đã ửng hồng. 


Hắn lấy từ trong người ra một thứ, đưa về phía cô. Cô buông hai dùi trống trong tay xuống, xòe ra nhận lấy. Gói lá quen thuộc khiến cô phì cười.


- Bánh xu xuê nữa à? Anh lại đi giăng dây chặng đường đám cưới nhà ai nữa thế?

 

- Tôi… Tôi có phải con nít nữa đâu! Cái này của người họ hàng xa ở xóm trên cho đám người đi phụ giúp đám cưới ít quà mang về. Tôi để dành lại.


Hắn bị cô chọc ghẹo, vội vàng phân bua. Cô gái cầm cái bánh xu xuê, ký ức thuở nhỏ trở về. Giọng cô nhỏ như muỗi kêu:


- Anh có biết việc cho người ta bánh xu xuê là gì không mà gặp ai cũng cho vậy?


- Không phải gặp ai tôi cũng cho mà. Không phải em cũng thích bánh xu xuê à?


Người thích bánh xu xuê từ nhỏ đến giờ, còn đòi ăn mỗi ngày chỉ có mình hắn. Cô cười cười, gật đầu:


- Vâng.


- Bánh xu xuê ngon mà, phải không?


- Vâng.


Cô tháo sợi dây màu đỏ buộc bên ngoài, giở lớp lá dong bên ngoài, lá chuối bên trong, để lộ phần nhân bánh vàng hươm như ánh nắng sớm rải trên những đụn rơm quanh làng. Cô cắn một góc bánh, nghe mùi thơm của quê nhà tan ra trong miệng. 


- Tôi báo danh ở chỗ xã quan. Họ báo là tôi được chọn rồi.


Hắn đột ngột lên tiếng. Không khí giữa hai người chợt trầm xuống. Miếng bánh trong miệng cô bỗng trở nên đắng ngắt, dù bây giờ cô không phải vừa trải qua một trận ốm nặng. Mãi một lúc sau, cô mới lên tiếng:


- Khi nào thì đi?


- Mai sẽ lên đường tới Thăng Long.


- Khi nào thì về?


- Không biết. Nếu qua được vòng tuyển chọn của triều đình, có lẽ tôi sẽ ở lại Thăng Long. Mà cũng chỉ là mơ ước của tôi vậy thôi. Để vào được Cấm quân không phải chuyện dễ dàng.

 

- Vâng.


- Mai đi tiễn tôi… à, chúng tôi được không?


- Vâng.


Tiếng “Vâng” nhẹ tênh của cô tan vào trong gió đêm. 


Câu hát trống quân từ xa xa vọng lại đã đến hồi giã bạn. 


Đêm tàn. Trăng tan. 


(Đây chỉ là một phần nội dung, toàn bộ nội dung sẽ được in đầy đủ vào sách khi tác phẩm được lựa chọn.)


Chú thích:


(1) Trống quân: Hát trống quân là sinh hoạt văn hóa dân gian, bằng hình thức hát giao duyên của người Việt ở vùng đồng bằng và trung du từ Thanh Hóa trở ra. Về nguồn gốc hát trống quân theo nhà nghiên cứu Trần Việt Ngữ: “Hát trống quân xuất hiện từ thời Trần, nửa sau TK XIII: thời kỳ chống quân Nguyên xâm lược, binh sĩ ta khi nghỉ ngơi đã ngồi thành hai hàng đối nhau gõ vào tang trống, cứ bên hát xướng, bên lại hát đáp. Sau chiến thắng điệu hát được phổ biến ra nhiều nơi trên miền Bắc”. Một giả thuyết khác lại cho rằng: “Hát trống quân xuất hiện từ khi vua Quang Trung thần tốc ra Bắc đánh đuổi giặc Thanh cuối TK XVIII. Để binh lính đỡ mệt mỏi, vua cho bày trò một bên giả gái hát đối đáp trao tình với bên quân lính, kèm theo trống đánh điểm nhịp, lúc nghỉ cũng như lúc đi đường. Ở Dạ Trạch, các cụ cho rằng, hát trống quân có từ đời vua Hùng thứ ba, khi công chúa Tiên Dung gặp và kết duyên với Chử Đồng Tử, khai phá vùng đất này, dạy dân cách trồng lúa, ươm tơ, dệt vải và dạy họ cả điệu hát trống quân. Cũng có người cho rằng, Triệu Quang Phục khi đánh thắng Trần Bá Tiên liền cho quân sĩ ăn mừng bằng cách gõ nhịp ngay trên thuyền, trong những bụi lau sậy tại đầm lầy Dạ Trạch. Trong truyện tác giả thiên về giả thuyết hát trống quân có nguồn gốc từ đời vua Hùng thứ ba. 


(2) Ca dao


(3) Bánh xu xuê: là cách gọi chệch đi của bánh phu thê (su sê, xu xê), một loại bánh ngọt truyền thống của Việt Nam, được sử dụng làm lễ vật trong tráp cưới hỏi ở một số vùng. Bánh phu thê được đề cập và mô tả trong truyện là bánh phu thê của vùng Đình Bảng (Bắc Ninh), được xem là nơi làm ra những chiếc bánh phu thê đầu tiên dưới triều đại nhà Lý.


(4) Quan gia: ở đây là chỉ Trần Thái Tông, Trần Cảnh.


(5) Thái sư: ở đây là chỉ Thái sư Trần Thủ Độ.

(6) Trích Đại Việt sử ký toàn thư, kỷ nhà Trần.


__________

Nếu bạn yêu thích tác phẩm Một tiếng trống quân, hãy bình luận nêu cảm nhận cho chúng tớ biết nha.


0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout