Tư liệu tham khảo:
1. Sách "Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục" (Quốc sử quán triều Nguyễn)
2. Sách "Vũ Trung Tùy Bút" (Phạm Đình Hổ)
3. "Hồ Xuân Hương - Tầm vóc một Danh nhân văn hóa" (Báo Nhân Dân điện tử)
4. "Nữ sĩ Hồ Xuân Hương - Bản lĩnh phụ nữ Việt" (Báo Quảng Ngãi)
5. "Lễ vinh danh và kỷ niệm 250 năm năm sinh, 200 năm năm mất Nữ sĩ Hồ Xuân Hương" (Cổng Thông Tin Điện Tử Đảng Bộ Tỉnh Nghệ An)
6. Sách "Tang Thương Ngẫu Lục" (Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án)
7. Sách "Người Quê Ta Đất Quê Ta" (Báo Hà Tây)
8. Sách "Truyền Kỳ Mạn Lục" (Nguyễn Dữ)
9. Sách "Đất Lề Quê Thói" (Nhất Thanh).
10. Sách "Việt Nam Phong Tục" (Phan Kế Bính)
11. Sách "Ngàn Năm Áo Mũ" (Trần Quang Đức)
12. Sách "Đố Tục Giảng Thanh Và Giai Thoại Chữ Nghĩa" (Nguyễn Trọng Báu)
Giới thiệu:
Người đời đồn nàng tài hoa nhưng lòng cũng lắm mối tơ vương ra phết đấy! Ừ, nói chẳng ngoa, Xuân Hương qua mấy lần đò còn gì, mà lần nào cũng chỉ làm lẽ. Âu là trời bắt nàng phận hẩm duyên hiu. Thôi, trời bắt tội thì đành chịu vậy! Song, cái khổ cái buồn đời nàng, người đời đồn đã khí nhàm tai, chẳng biết có ai đồn chuyện gì là lạ không nhỉ? Là lạ như là... hôm nào đó chẳng nhớ rõ, Xuân Hương bỗng gặp một ông quan hợm hĩnh, quê ở Sơn Tây...
...
Lưu ý: Đây là một câu chuyện không hề có thật.
Có hai sự kiện trong truyện được tác giả lấy cảm hứng từ các giai thoại về Hồ Xuân Hương. Giai thoại thứ nhất: Hồi bé, bà đi học, trượt chân ngã rồi đọc: "Giơ tay với thử giời cao thấp / Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài". Giai thoại thứ hai: Có viên quan đi vãn cảnh Hồ Tây rất kiêu căng, bà trông thấy bèn đọc: "Võng điều quan lớn đi trên ấy / Váy rách bà con giặt dưới này".
Các sự kiện còn lại trong truyện đều do tác giả tưởng tượng ra, không hề có thật.
Trong số các nhân vật xuất hiện trực tiếp trong truyện, chỉ có những nhân vật sau là có thật: Hồ Xuân Hương, ông đồ Diễn và bà đồ Diễn (Cha và mẹ của Xuân Hương), trưởng tràng Tử Minh. Các nhân vật (xuất hiện trực tiếp) còn lại không hề có thật, do tác giả tưởng tượng ra.
_________
Vụ chiêm[1] năm nay giời thương, đồng nào đồng nấy lúa tốt bời bời. Dân làng Ngái[2] được mùa to.
Trường ông Cử Ngái[3] nghỉ mùa[4], lò gậy ông Thịnh[5] cũng tạm ngừng tập dăm hôm để giai[6] làng còn gặt. Duy có anh xứ[7] Quý, người rỗi rãi nên tha thẩn ở cầu Nghinh[8], miệng nghêu ngao hát:
– Nào tưởng… đâu thế mà ta lạc (í) chốn (í) Đào Nguyên. Quán Nghinh (thời) Hương, mà kỳ ngộ (í i)[9].
Nhà thừa mứa bát ăn, ê hề tôi tớ, anh chàng cứ việc học rồi chơi nhong nhóng, đời nhàn tênh. Mà tẻ ngắt. Bởi vậy, anh xứ đành bước lững thững từ giếng Ngọc[10] tới chỗ giồng linh thụ[11], những mong “kỳ ngộ” một, hai hoặc ba “thiên duyên” giống chuyện chàng Lưu Bình[12] dạo nọ. “Thiên duyên” phải đẹp thì anh mới nghe, chứ như ả vợ xó bếp thô kệch của anh… vứt quách cho rảnh nợ!
Quý hậm hực oán cha mẹ ép uổng cái duyên chổng chểnh tựa kèo đục vênh [13], đoạn tơ tưởng thiếu nữ ngọc ngà con thầy học. Sau hằng hà sa số lần nì nèo hết nước hết cái, cha mẹ anh đã đồng ý cưới vợ lẽ cho anh! Gặt xong, đằng nhà anh mượn mối lái rồi giạm ngõ là vừa. Nghĩ tới đây, anh xứ Quý hởi lòng hởi dạ hẳn, óc tấp tểnh kiếm lý do nào đó tạt qua đằng thầy học hòng liếc trộm người ngọc.
Vật nào cưng cứng bỗng chạm vào tay khiến Quý giật nảy. Dào, hóa ra là ống nhổ, chắc cu cậu nào tới cầu Nghinh học rồi bỏ quên. Anh Quý toan mặc kệ, song ma xui quỷ khiến thế nào lại nhặt lên ngắm nghía. Nước men bóng khỏe, một bông hoa mai được vẽ thật khéo dưới đáy ống, nom hệt hoa thật. Ngờ ngợ, Quý đưa vật bé nhỏ tới gần mắt hơn. Thôi đúng rồi, thỉnh thoảng sang tập văn bên thầy học, anh thấy ông cụ thân sinh ra thầy say sưa ngắm nghía đáy ống, chốc chốc ông cụ sẽ sàng vuốt ve “đóa hoa mai” mà thở dài.
Anh xứ mừng quá đỗi, đương buồn ngủ thì gặp chiếu manh. Mình mượn cớ sang giả ông cụ của này là tốt nhất, vừa được tiếng trọng nghĩa khinh tài[14], vừa làm thân với bên ấy. Quý đứng phắt dậy, mặt tươi hơn hớn.
Cắm đầu cắm cổ đi một mạch, chẳng mấy chốc anh chàng đã đứng trước chiếc cổng ngói khép hờ. Tuy nhiên Quý không thông thốc xông vào ngay. Anh tỉ mẩn chỉnh chữ “Nhân” nằm thật ngay ngắn giữa trán[15] rồi đủng đỉnh nhấc gót.
Nhác thấy ông Cử Ngái ngồi chĩnh chện trên sập, xứ Quý vội cất tiếng chào:
– Thưa thầy, tiểu sinh là Phạm Phú Quý lớp đại tập đến thăm thầy ạ!
Ông Cử ngơ ngác, song vẫn nhũn nhặn mời:
– Ừ, anh vào chơi.
Anh chàng rón rén bước qua ngưỡng cửa, đợi thầy cho phép mới ngồi mớm xuống cái ghế con con. Hỏi han vài câu chiếu lệ xong, ông Cử thắc mắc:
– Anh tới có việc gì phỏng?
Quý mau mắn đệ lên bàn chiếc ống nhổ, trình bày rõ đầu đuôi. Mừng rối rít, ông Cử vội sai đứa ở báo với cha rằng châu về Hợp Phố[16]. Lát sau, tiếng khóc rấm rứt từ đâu vẳng lại, thỉnh thoảng điểm thêm tràng ho sù sụ kéo dài.
– Ới cô mình ơi…
Hình như ai đang hờ rất thê thảm. Anh xứ tái mét mặt mày, run lẩy bẩy. Ông Cử trấn an:
– Ấy, xin anh chớ sợ. Cái ống nhổ đối với cha tôi báu lắm, cơ hồ ông cụ coi nó là ngọc báu liên thành[17] đấy. Phỏng chừng hôm qua cụ đánh rơi mà không biết, về nhà cứ tìm loạn cả lên. “Tiếc thay chút nghĩa cũ càng / Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng”[18] anh ạ.
Câu nói sau chót của ông Cử khiến Quý ngỡ ngàng. Sẵn tính tò mò, anh ren rén thưa:
– Thưa thầy, dạ, thưa…
Ông Cử cười, lập cập ngậm xe điếu, rít một hơi thuốc lào. Khói thuốc bay hết, ông bắt đầu ề à:
– Cảm cái lòng trọng nghĩa khinh tài của anh, tôi muốn nói đôi điều dông dài về ông cụ nhà tôi. Cách đây gần sáu kỷ [19], đất nước đang bị sông Gianh chia cắt, họ Lê họ Trịnh còn nắm quyền ở Đàng Ngoài…
Theo lời kể đều đều, từng giọt dĩ vãng xa xăm dần dần đọng thành cái hồ lớn như Hồ Tây. Thấp thoáng chiếc võng ba đòn khiêng[20] nghênh ngang một góc bờ phía đông.
…
Cái võng ba đòn khiêng ấy được cha ông Cử, thuở vẫn là chàng Tri huyện Quảng Đức[21] tuổi mới đôi mươi, dùng để nằm lúc vãn cảnh trong kinh thành. Võng đi đến đâu, lính tráng dẹp đường, xua đuổi dân đen đến đấy. Lũ con sâu cái kiến ngoan ngoãn lánh mặt, nào dám ho he nửa câu. Mình võng quan huyện khinh khỉnh tiến bước, hai đứa cắp tráp xách điếu cung cúc theo sau. Khắp vùng Quảng Đức, đứa nào oai tày quan?
Bình thường, quan khoái cái oai cóc chết ấy lắm, song bây giờ quan nhọc đừ, hơi đâu bắt chước “cậu giời[22]”! Tri huyện phải một bệnh khí lạ: Giời mưa to bao nhiêu, chàng ta dức [23] đầu bấy nhiêu. Tháng tư mưa trận đầu tiên, mưa nhỏ thôi, chàng đã dức đến nỗi xin tạm nghỉ việc quan dăm ngày, định lúc nào đỡ đỡ sẽ quay lại coi sóc dân Quảng Đức. Chết nỗi, mặc dầu Đoan Nam Vương tỏ ý chuộng nhời[24] ngay thẳng để xoa dịu cơn giận của cao xanh, nhưng cao xanh vẫn làm tình làm tội ngót tháng giời[25]. Thành thử, Tri huyện ốm dai nhanh nhách, tận hôm nay tạnh ráo mới bò dậy được. Dậy được, song chẳng giống hình người nữa, người chàng xanh tựa tàu lá chuối, cặp môi xám ngoét hệt đôi con đỉa no máu. Chao ôi, giời đày chàng mà chàng chẳng đày lại được giời cho hả cơn tức.
Thằng hầu Lữa nom mặt quan khó đăm đăm liền lo ngay ngáy. Bản thân nó sắp thành cái thớt cho quan chém thay cá cũng nên. Nhanh nhảu, Lữa dò hỏi xem quan có muốn đi đó đây giải khuây. Hồ Tây đẹp nức tiếng chốn kinh kỳ, dạo một vòng quanh đấy khác nào lạc cảnh tiên. Đào Nguyên sẵn bày, tội gì mình không ngắm cho thỏa, không khéo Từ Thức gặp tiên[26] chưa biết chừng. Mỏ khướu giỏi hót, tiếng ngọt từ từ lọt xương ai. Lọt rồi mới biết…
Quan huyện uể oải vén tấm mành mành cánh sáo lên. Nắng non tháng tư[27] độc gớm độc ghê, một chín một mười với trảng[28]. Giữa không gian ngập ánh vàng nhập nhòa, bóng con thuyền xa xa chuyển động bập bềnh trên mặt nước, mệt mỏi, dềnh dàng. Trông ngứa mắt đáo để! Chàng trai bỗng cảm thấy cổ họng khô như ngói, đầu ong ong. Chàng muốn giọt thằng khuyên quan vãn cảnh hồ một trận nên thân. Tiên đâu chẳng thấy, chỉ thấy nhọc xác!
Hình như ông giời thương quan huyện bỏ công chờ sung, lát sau sung rụng thật. Đúng lúc chàng ta nghiến răng nghiến lợi sắp chửi cha tên hầu lên, giọng đàn bà eo éo vẳng bên tai:
– Võng điều quan lớn đi trên ấy…
Mắt Tri huyện sáng rỡ ràng. Nàng Giáng Hương, nàng Giáng Hương phỏng? Vế đối tuyệt hay, lột tả sự sang trọng của chàng tuyệt khéo như thế họa may thần tiên làm nổi.
Câu đối còn thiếu một vế, thành thử chàng cứ bồn chồn chờ ai kia đọc nốt. Chàng lầm rầm khấn vái Phật rằng vế thứ hai sẽ nhắc đến mũ bức cân sềnh sềnh [29] trên đầu, rất đắt tiền, mà chàng vẫn quý hơn mọi cái khác.
Ngay lập tức, giọng eo éo tiếp tục dội vào đôi tai đương háo hức của Tri huyện Quảng Đức:
– Váy rách bà con giặt dưới này.
Quan huyện cau mày ngẫm nghĩ. Đối gì lạ thế, sao lại “váy rách” nhỉ?
– Bẩm, nó ví võng quan với cái váy rách đấy ạ. – Lần thẽ thọt mách.
Điếng hồn, vị nằm võng suýt ngã lăn quay xuống đất. Thần tiên gì ngữ ấy! Nó đích là cú diều hôi tanh, phải nọc ngay cổ nó ra, quất mấy roi quắn đít! Cả đám toi cơm kia nữa, quan huyện bầm gan tím ruột lắm rồi mà không đứa nào động đậy mảy may, cứ nghệt mặt cả lũ với nhau. Chàng hằm hè hai đứa hầu, chúng hãi quá cứ im thin thít. Càng lúc, bầu không khí càng giống cái néo sắp sửa đứt dây. Dây đứt là thảy bọn đội nón khùa, nón chèo vành[30] đều “đứt” theo.
– Bẩm quan, con bắt được ả xấc xược kia rồi ạ. – Tên lính nào đó reo to, đoạn lôi cổ một kẻ đội nón sùm sụp, trùm áo tơi kín mít tới trước võng quan.
Quan huyện Quảng Đức dịu ngay nét mặt, đám tôi tớ thở phào, thi nhau lườm kẻ cả gan trêu vâm trêu hùm. Dân chúng mon men đến gần lăm rình trộm, len lén hỏi nhau vì sao lính ông huyện trói cô ả. Bị bắt quỳ xuống, ả giãy giụa chẳng chịu. Song rốt cuộc, dã tràng hoài công xe cát.
– Oan tôi, bẩm, tôi có tội tình gì đâu kia chứ, xin các ông xét lại. – Ả xưng xưng cãi.
– Câm mau! – Tri huyện quên bẵng mất mình vừa ốm dậy, gò lưng gân cổ hét. – Giờ hồn, nghe chửa? Oan, oan thị Mầu ấy à, có phải mày xỏ xiên, mày coi, mày coi cái võng quan trưởng [31], như, như cái…
Quát con ả im xong, chính quan huyện cũng líu cả lưỡi, đầu đau dữ dội gấp năm gấp mười. Chàng vừa thở hổn hển vừa lào khào quở mấy câu. Giả điếc, con ả ấm ớ:
– Bẩm quan, sao quan ăn mãi không nên đọi nói mãi không nên nhời thế ạ, con chả nghe rõ tí nào.
Loáng thoáng có tiếng cười khúc khích từ đâu vọng tới. Lại xỏ! Tri huyện díu mày. Chàng sai lính gỡ nón, lột áo tơi của con ả để xem xem con cái nhà ai.
Luống tưởng mặt nạc đóm dày hoặc vàng vọt bủng beo, ngờ đâu ẩn dưới trang phục lôi thôi lếch thếch là cổ tay trắng như ngà, là đôi mắt sắc tựa dao cau[32]. Cô gái trẻ măng, khoảng đôi bảy đôi tám[33], vóc mai yểu điệu tha thướt vô cùng. Nắng chợt nhạt hẳn đi, quan lẫn lính ngẩn ngơ, ngơ ngẩn. Nom ả cũng thanh tơ nhỏ chỉ phết chứ đùa!
Riêng thằng Lữa không ngơ ngẩn. Giời cao đất dày ơi, bà chị họ Xuân Hương hết trò để nghịch rồi hay sao? Rớ ai chẳng rớ, bà chị rớ ngay quân hợm của hợm quyền. Chân tay Lữa lạnh cứng, mồ hôi mẹ mồ hôi con thi nhau túa ra.
Tri huyện Quảng Đức ngầm lệnh cho lính điệu Xuân Hương về công đường để răn đe thái độ “vô lễ với bậc cha mẹ dân”. Thất kinh, Lữa vờ diếc:
– Đồ quai xanh vành chảo nhé! Thôi, quan chấp gì thứ ngu dại này, nó thấy oai hùm là nó khiếp nó chừa, nó không dám nỏ mồm nữa. Không khéo tha nó lại được thêm tiếng nhân đức.
Dù người lẩy bẩy như cua lột nhưng quan huyện vẫn mắm môi mắm lợi “tặng” thằng hầu mấy cái bợp tai. Tha là tha thế nào, dễ con ả mặt sứa gan lim cá mè một lứa với chàng hẳn!
Chiếc võng ba đòn khiêng vênh váo rời khỏi bờ hồ. Nàng Xuân Hương bị trói phải lê bước đằng sau.
…
Thằng cha huyện Quảng Đức bắt Xuân Hương quỳ giữa công đường. Nàng bêu nắng đã lâu mà chưa thấy tăm hơi hắn. Quái lạ, hắn định khiến nàng chết khô chết nỏ ru? Con mọt dân, ăn không ăn hỏng thì nhanh lắm, xét xử thậm kệnh dệnh. Hắn muốn phạt gì cứ phạt, phạt mau mau để nàng về kẻo cha mẹ trông. Về muộn quá, hai người biết nàng bị lên cửa quan, hẳn nàng no đòn. Lúc đấy nên chối tội thế nào nhỉ?
Có lẽ nàng sẽ thưa thực rằng nàng đang giặt giũ bên hồ cùng bà con chòm xóm giống thường ngày, bỗng dưng mọi người kháo nhau ầm ĩ: Quan huyện vãn cảnh nên sai lính đuổi dân. Ai nấy thi nhau co cẳng chạy bán sống bán chết, còn Xuân Hương bình tĩnh hỏi dò xem ông quan gốc gác, đỗ đạt cao được mấy mà dân sợ một phép.
Bác gái đứng cạnh rít qua kẽ răng:
– Con này chả nghe thế nào, ông ý không phải “chân trắng[34]” đâu, sinh đồ hẳn hoi.
Xuân Hương chưa kịp khen tài giai, bác gái đã chép môi kể nốt. Tri huyện Phí Đông Phong đỗ sinh đồ… ba quan[35]. Gốc gác nhà quan cũng không lấy gì làm sang quý. Ông thân sinh của Tri huyện nguyên người Thạch Thất, trấn Sơn Tây, nghèo kiết xác nhưng đèo bòng những hai bà vợ. Quan huyện Quảng Đức là con bà bé. Khi chửa quan huyện, bà cụ thèm ăn gà mà nhà không sẵn có. Thần tiên lúc túng cũng liều lọ thân cú diều hôi tanh, người chồng bèn sang bên hàng xóm “mượn tạm” đôi gà. Bị bắt quả tang, ông cụ bị người ta đánh nhừ tử rồi phải đi bêu dọc làng, cổ lủng lẳng đôi gà thiến.
Ai cũng tưởng phường tắt mắt[36] ấy sẽ nhục mãn kiếp, ngờ đâu tầm bảy, tám năm sau, ông cụ giàu nứt đố đổ vách bất thình lình. Của ăn của để thừa rồi, ông cụ dắt díu vợ con lên kinh thành sinh sống. Thằng con dốt đặc cán mai dài cán thuổng, chớ lo, ông cụ lo lót không tiếc bạc, cốt đổi lấy chút danh thơm lên mặt với đời. Tới lượt thằng con huênh hoang tợn dẫu đầu óc rỗng tuếch, giới nho lâm vẫn ngấm ngầm khinh bỉ.
Xuân Hương bĩu môi. Gà què ăn quẩn cối xay mà bắng nhắng gớm, nàng phải làm cho một mẻ. Xuân Hương mượn bác gái chiếc áo tơi rồi choàng kín thân, xong xuôi thì điềm nhiên giặt váy. Võng quan huyện đến gần, nàng đọc bỡn mấy câu, kế đó nhanh chân chạy biến. Rủi thay, bọn lính vẫn tóm được nàng. Công đường lặng như tờ, chỉ có tiếng Xuân Hương thở dài khe khẽ.
– Này, con ả! – Thằng Lần thét.
Giật nảy, Xuân Hương ngơ ngác ngó nghiêng. À kia rồi, thằng cha Tri huyện ngồi bàn độc, mặt hầm hầm. Mũ bức cân cùng áo the biến đâu mất, chiếc mũ lương cân cùng áo thanh cát càng khiến hắn có vẻ… nhảy bàn độc [37]. Xuân Hương nín cười, cố ra tuồng khúm núm sợ sệt. Môi nàng chúm chím, hơi bĩu lên, nom khôi hài y hệt hề chèo.
Chừng cũng ngờ ngợ nàng giễu mình, Đông Phong giận run, bảo đánh mười roi. Một tên lính sấn sổ lại gần Xuân Hương. Nàng hốt hoảng nhích sang trái, đoạn phân bua:
– Lạy quan ạ, con dân đen trót ăn càn nói quấy. Của đáng tội, con trộm nghe các cụ dạy, người khôn…
Quan gằn gọc:
– Người khôn cái gì?
– “Người khôn nói mánh, người dại đánh đòn[38]”, thế là con tưởng các cụ muốn bảo người khôn thích nói lý lẽ, người dại hở tí là đánh đấm. Con sợ mình bé dại nên con đang tập ăn khôn nói khéo ạ! Mong quan tha về kẻo oan con.
Thấy Đông Phong ù ù cạc cạc, thằng Lần phải cắt nghĩa rằng Xuân Hương nói mát chàng là người ngu dại. “Người dại đánh đòn”.
Mấy ngón tay quan bấu lấy mặt bàn co duỗi liên tục. Cái bàn độc rung rung, lắc lắc hầu muốn đổ chổng kềnh. Tập ăn khôn nói khéo à, khôn ngoan đến cửa quan mới biết nhé, mày động đến quan tức là mày hóa dại! Đông Phong quát lính cứ nện thẳng tay.
Bị trói quặt chân tay, Xuân Hương chật vật tránh đòn. Công toi cả, chiếc roi mây chẳng xót liễu yếu đào tơ, lạnh lùng quất. “Vút”, tay áo nàng rách toạc, da rớm máu. “Vút”, con lươn to đùng hằn sau lưng nàng. Đau tối mày tối mặt nhưng Xuân Hương cắn răng, ghìm nước mắt. Bụng làm dạ chịu, nàng nhớn chứ có bé bỏng nữa đâu.
– Kìa, giữ nó im không cựa quậy thì đòn mới thấm. Chúng bay khua múa lấy lệ, dễ nó chừa được hử?
Đông Phong trách móc, giọng cay nghiệt. Chàng vừa dứt lời, người đàn bà lạ mặt từ ngoài hớt hải xông vào, dùng thân mình che chở Xuân Hương.
– Giời ơi, con tôi! – Bà sờ nắn khắp mình con rồi nức nở.
– Mẹ, mẹ.
Nhìn thấy mẹ, Xuân Hương tủi thân oà khóc, mếu máo gọi mẹ. Lính ú ớ chực ngăn cản, nhưng cuối cùng ngần ngừ rồi đứng yên tại chỗ.
Bà đồ Diễn âu yếm vỗ vỗ lưng con, sau đó gạt lệ đầy quả quyết. Đôi tay bà gầy guộc bưng cái đĩa sứ nho nhỏ, chậm rãi đi lên đứng trước ngài quan huyện vẫn ngây như phỗng.
– Lạy quan, con dại cái mang, thôi thì con xin bậc “đèn giời soi xét” chín bỏ làm mười. – Bà đồ rẽ ràng nói. – Không con mang tội chết mà có con phải mang tội sống, về nhà con sẽ răn dạy cháu thật nghiêm khắc.
Tri huyện Quảng Đức không đáp nhời. Trông thằng Lữa nhấp nha nhấp nhổm nhưng chẳng dám giục, chàng mới lẳng lặng gật đầu. Mừng quýnh, bà đồ kính cẩn cảm tạ. Đoạn, bà quát Xuân Hương tạ tội với chàng.
Đông Phong hờ hững liếc nàng, ý chừng chưa nguôi giận. Ấy vậy mà khi Xuân Hương cùng bà đồ rời khỏi công đường, chàng nheo nheo con mắt cố nhìn theo hai mẹ con. Song, loáng cái chàng đã không thấy họ đâu nữa.
Sự phớn phở mỗi lần thưởng thức mâm cao cỗ đầy của Đông Phong cũng biệt tăm kể từ hôm đó. Ngày ba bữa, chàng chỉ ăn gượng, uống gượng cho khỏi ngã bệnh chứ chẳng buồn nghề ngà nhắm rượu nữa. Nhà bếp chẳng biết uốn câu vừa miệng cá, trên chiếc mâm đồng tròn vành vạnh, rượu thịt vẫn ê hề. Cáu tiết, chàng mắng nhà bếp sa sả. Mỗi mình chàng, mỗi mình chàng ngồi trước mâm cơm thôi thì nấu nhiều gấp đôi nấu cỗ giỗ làm quái gì?
Nhấp thử chút rượu nếp cái hoa vàng thơm lừng, cắn thử miếng chân giò ninh nhừ béo ngậy, Đông Phong suýt mửa mật xanh mật vàng. Món nào món nấy đều ngây ngấy, tanh tanh, dầu đắt dầu bổ mặc lòng.
– “Miếng cao lương phong lưu nhưng lợm[39]”.
Đông Phong đọc ê a rồi bật cười. Chàng chẳng tin mình chán xôi thịt, vốn là thứ mẹ đẻ chàng thèm rỏ dãi khi xưa, thèm đến nỗi chồng phải đi ăn trộm để bà cụ xơi hòng thỏa cơn thèm. Giời cao đất dày, nhắc đến bà cụ mà chàng lộn cả ruột! Ví thử bà cụ tự biết mình xấu máu chớ ăn của độc, bầu dục chẳng đến bàn năm[40] thì chàng đâu cần thẹn với đời. Đông Phong dằn đôi đũa xuống mâm, quát đầy tớ chuẩn bị võng.
Cái tráp sơn đen vừa được thằng Lần cắp vào nách thì lại có tin quan đi bộ lên chợ từ nãy rồi, cấm đứa nào theo hầu.
…
Đông Phong ghé hàng lụa, lơ đễnh ngắm nghía dải lụa đào phất phơ. Cô ả Xuân Hương y đúc dải lụa này, nhìn mềm oặt nhưng vô phúc buộc vào thì quấn chặt đáo để! Thật thế, trước cửa công mà ả ngoen ngoẻn xiên xỏ mãi, đâu buông tha chàng lấy nửa khắc. Ấy, con người xoen xoét cái mồm là thế, trâng tráo là thế nhưng lại nức nở thê thiết không ai bằng. Đông Phong hiểu đó không phải giọt lệ rơi do đòn đau, đó là giọt châu rắp ranh làm nũng với mẹ. Nàng khóc, mắt chàng tự dưng ầng ậng nước. Song, Đông Phong nuốt ngược cơn rầu ruột héo gan vào trong, tịnh không sụt sùi mảy may. Chàng không muốn khóc. Hay chàng không dám khóc? Thuở đương ham thích đánh khăng đánh đáo, mỗi bận chàng sụt sịt là một dịp cho mẹ già[41] chàng cùng dân làng rỉa rói:
– Câm mau! Khóc với lóc, cứ làm như oan Thị Kính không bằng, lúc mẹ con mày ăn không ăn hỏng của người ta thời khóc ru?
Khốn nạn, nào đã được ăn không ăn hỏng miếng gì! Kẻ khác ăn một miếng tiếng một đời, còn chàng có tiếng chẳng có miếng. Cũng một đời. Mang tiếng rồi, chi bằng chàng nín khóc cho vừa ý họ. Nín lâu quá, chàng quên mất cả trò hờn dỗi huyên đường bằng nước mắt vắn dài. Chàng quên mất tình thắm thiết giữa mẹ và con.
Bởi vậy, Xuân Hương khiến chàng ngạc nhiên, rồi tò mò. Cả quyết xua tay ra hiệu lính mặc kệ bà đồ, kỳ thực chính Đông Phong không biết vì sao chàng chọn mặc kệ. Thôi, cầm bằng chàng đau đầu nên không tỉnh táo.
Mải suy nghĩ, chàng chẳng chú ý tiếng hét thất thanh:
– Bớ bà con ơi, voi xổng, voi xổng chuồng!
Khắp chợ nháo nhào, người mua kẻ bán thành bầy ong vỡ tổ, đâm bổ vào nhau mấy mươi lần. Một ông lão đuối sức liền lảo đảo như lên đồng, cái liềm trong tay ông chĩa thẳng về phía Tri huyện Quảng Đức. Sực tỉnh, mặt Đông Phong xám như gà cắt tiết, cẳng chân cứng đờ không nhúc nhích.
Đột nhiên, chàng ngã dúi dụi sang bên trái, thoát khỏi lưỡi liềm sắc nhọn trong gang tấc. Hú vía! Hết cơn choáng váng, chàng nhanh chóng nhận ra thiếu nữ vừa đẩy mình. Đôi mắt sắc tựa dao cau lúng liếng liếc chàng. Chàng thất thần, mặc cô nàng dắt mình đi đâu thì dắt.
Xuân Hương đưa Đông Phong tới góc chợ thưa người hơn. Đoạn, nàng buông tay áo chàng ra.
– Quan anh chơi chợ phải cẩn thận, dạo này có bọn vô lại cứ ngoa ngôn rằng voi, ngựa xổng chuồng, sau đó lợi dụng sự hỗn loạn mà cướp của[42]. – Nàng vừa thở vừa dặn.
Quả thật, chợ ngớt tiếng rú lên đầy kinh hãi, nhường chỗ cho những câu chửi độc địa tuôn xối xả:
– Chém cha con đẻ mẹ chúng nó, buôn lạy bán dạ mửa mật mới đủ vắt mũi đút miệng. Thế mà chúng nó khuấy đục nước để béo cò. Phỏng còn giời đất nào nữa? – Giọng lanh lảnh lọng óc tiếp tục rỉa rói. – Chém cha con đẻ mẹ mày, quân vô lại, chúng bay đợi đấy, của thiên phải giả địa chứ đừng hòng ăn chó cả lông. Bà thì chẻ xác mày ra!
Tri huyện Quảng Đức tức anh ách, bởi cách đây năm tháng, một người bạn là ưu binh kính cẩn đệ lên bàn năm quan chẵn, nằn nèo xin chàng “dón tay làm phúc” cho “mấy đứa em” lúc giời làm đói kém. “Mấy đứa em” đầu trộm đuôi cướp của hắn cực chẳng đã mới phải… đầu trộm đuôi cướp.
– Xin huynh ông ngơ đi cho.
Dăm nhời nói, mấy quan tiền đã đắt, bọn cướp đêm biến thành cướp ngày rất chóng vánh. Non nửa năm nay, chúng và quân Tam phủ[43] thi xem bên nào càn rỡ hơn.
Của đáng tội, chúng đói quá mới phải làm liều. Vả lại mụ hàng kia nói vậy khác nào tát vào mặt quan.
– Miệng lằn lưỡi mối, bố cái loại! – Đông Phong lúng búng.
Xuân Hương cau mày:
– Đau thiết thiệt van, không trách được thưa quan. Thôi, em phải tìm gánh hàng của em, vô phép quan anh ạ.
Chỉnh trang đầu tóc xong, Xuân Hương dợm bước. Nhưng quan huyện nắm cổ tay trắng ngà mà rằng:
– Chết nỗi, cô sao thế này?
Hóa ra lúc nàng giơ tay lên vuốt tóc, chàng vô tình trông thấy vết roi chằng chịt. Gớm, còn sao nữa, Xuân Hương nghĩ thầm. Nàng ù té chạy, cười giòn:
– Trúng gió quan anh ạ, gió mấy hôm rày độc lắm!
Đông Phong mê mải nhìn tấm khăn hồng mềm mại ôm lấy suối tóc óng chuốt. Khăn phất phơ đùa với gió. Khăn cách chàng đã xa mà lòng chàng tựa hồ vẫn có thứ gì đương buộc chặt lấy. Ô hay, thế tức là sao nhỉ? Đông Phong thảng thốt lắc đầu thật mạnh hòng quên đi. Nhưng khăn đội đầu, khăn đội đầu như thể đóa sen tươi mơn mởn thì quên làm sao cho bằng hết? Ví dạo trước học chữ Thánh hiền cũng nhớ dai nhường này có phải sướng không! Ai đời… Chàng thấy mình lạ quá, lạ quá!
Mà lạ thật, chưa bao giờ chàng phải ra ngẩn vào ngơ tròn một con trăng. Gượm đã, tròn một tháng rồi ư?
Đông Phong bước từ trong nhà ra ngoài sân, chân thất tha thất thểu. Con chim tha mồi[44]? Đông Phong bước từ ngoài sân vào trong nhà, mình mẩy nóng hầm hập. Giời ơi, chẳng nhẽ chàng bị vong theo?
Nhìn chàng đờ đẫn cả người, lũ tôi tớ cũng đâm ngờ chàng bị bắt mất hồn phách. Thằng Lữa run run hỏi:
– Lạy quan, quan vẫn là quan chứ ạ?
– Ông chả là ông thì là con chó nào? – Đông Phong bực bội vặc.
Song chợt nghĩ đến chuyện gì, chàng đổi giọng ngọt ngào:
– À thôi, mày lên chơi chợ với ông.
Đông Phong hớn hở nhấc gót, Lữa lếch thếch xách điếu đằng sau. Quan rảo cẳng nhanh hơn cả ăn cướp, nó nhọc bở hơi tai mới theo kịp. Khốn nạn thân nó, đến nơi thì quan lượn khắp chợ, không ngồi nghỉ dù chỉ một lúc. Nó phải chạy như con ngựa lồng.
Đuối sức, Lữa lảo đảo ngồi xuống, mắt dác dác tìm quan. Tài thật, loáng cái đã không thấy quan! Nó thở hắt ra, vắt chân lên cổ chạy. Nó nào hay quan đương đứng vẩn vơ trước mấy thúng mít đầu mùa. Nhưng quan đứng yên như phỗng, tịnh không dám cất nhời gọi cô hàng.
Đông Phong ngờ mình loạn trí. Củi lòng cháy đượm đốt lên ngọn lửa bồn chồn, thôi thúc chàng mò kim… giữa chốn bán mua ồn ào. Kỳ thực chàng chửa rõ cô nàng có đi chợ hôm nay không, chỉ rõ rằng lòng chàng thầm mong vẫn còn duyên gặp lại. Giời chiều ý người, chàng thấy kim rồi! Thấy rồi, nhưng…
Chàng cố nhớ lại dáng vẻ mình khi chơi chợ mấy lần trước: Hống hách quát tháo bọn buôn thúng bán mẹt, ép bọn hàng thịt hàng cá bán rẻ hoặc biếu không. Bây giờ, hàng thịt vẫn nguýt hàng cá, còn chàng dường mất già nửa cái oai thường ngày. Cố làm vẻ trơ trẽn, Đông Phong sà vào hàng mít, lựa quả nào ngon ngon thì mua về. Tay chàng mải mốt mân mê hết quả này tới quả khác dù chẳng biết phân biệt mít mật mít dai. Xuân Hương không nói gì. Vững dạ, chàng trộm liếc nàng. Vừa nhai trầu bỏm bẻm, Xuân Hương vừa cắm cúi lần giở quyển sách. Giời ạ, nàng không để ý rằng có kẻ mua hàng. Thảo nào…
Chàng hơi phật ý, toan đánh tiếng. Cơ mà, nhìn cô nàng chốc lát kể cũng không thiệt thòi gì. Đông Phong lấm la lấm lét.
– Thân em như quả mít trên cây.
Chết rồi! Chàng giật bắn, không dám ngẩng lên.
– Da nó xù xì múi nó dày.
Gai mít chọc vào tay chàng nghe nhoi nhói.
– Quân tử có thương thì đóng cọc. – Xuân Hương kéo dài chữ cuối.
– Xin đừng… – Nàng cố tình nói to – Mân mó nhựa ra tay[45].
Mặt đỏ hơn gấc, chàng vụt chạy. Xuân Hương gọi giật:
– Lạy quan ạ, quan thương dân thời quan mua giúp đôi ba quả cho dân được nhờ bóng quan ạ.
Lẽ dĩ nhiên, bố bảo thì vị mũ cao áo dài kia cũng chẳng ngoảnh đầu. Xuân Hương đắc ý ngó đồ trong thúng. Mít còn nguyên, tiền chàng bỏ quên. Người mất tăm mất dạng. Xuân Hương cười nắc nẻ, nước cay nồng tràn xuống cổ họng khiến nàng ho sặc sụa. Nàng muốn nhả bã trầu nhưng chợt nhớ mình chửa sắm ống nhổ riêng. Thở dài thườn thượt, nàng đành ngậm trong miệng suốt buổi chiều. Các cụ bảo yêu nhau ném bã trầu, chàng nào ghé ngang qua đây muốn nhận của nỡm này phỏng?
…
(Đây chỉ là một phần nội dung, toàn bộ nội dung sẽ được in đầy đủ vào sách khi tác phẩm được lựa chọn.)
Chú thích:
[1] Vụ chiêm: Lúa chiêm thường được thu hoạch vào khoảng tháng tư âm lịch.
[2] Làng Ngái: Là một trong các cách gọi nôm na của làng Hương Ngải, thuộc huyện Thạch Thất. Cuối thời Lê Trung Hưng, huyện Thạch Thất thuộc trấn Sơn Tây, vào thời Nguyễn thì huyện Thạch Thất thuộc tỉnh Sơn Tây.
[3] Ông Cử Ngái: Cử nhân là một học vị dành cho người thi đỗ kỳ thi Hương thời Nguyễn. Ông đỗ Cử nhân quê ở làng Ngái nên gọi là "Ông Cử Ngái".
[4] Nghỉ mùa: Theo thông tin tham khảo từ tác phẩm "Bút Nghiên" của tác giả Chu Thiên, khi lúa chín thì thầy đồ cho học trò nghỉ để học trò về gặt lúa.
[5] Lò gậy ông Thịnh: Theo bài “Một vị phó bảng ở làng Ngái" trong sách “Người Quê Ta Đất Quê Ta” (Bảo Hà Tây - Tuyển tập), cụ Phí Văn Thịnh thuộc họ Phí Đình rất giỏi võ, nhất là môn đánh gậy. Năm Bính Thìn (1856), cụ mở lớp dạy võ ở làng, điển hình là lớp học đánh gậy, còn gọi là lò gậy làng Ngái (sau đổi là phường gậy) rất nổi tiếng. Cách gọi “Lò gậy ông Thịnh" chỉ là cách gọi do tác giả sáng tạo ra để độc giả dễ nhớ hơn.
[6] Giai: Trai.
[7] Anh xứ: Thời Nguyễn, học trò muốn thi Hương thì phải đỗ kỳ thi sát hạch (Con cháu hoàng tộc, con các quan, Tú tài thì không cần thi sát hạch), ai đỗ đầu kỳ thi này thì gọi là "đầu xứ”. Anh Quý đỗ đầu trong kỳ thi sát hạch nên gọi là “Anh xứ Quý".
[8] Cầu Nghinh: Cách gọi khác của quán Nghinh Hương, một di tích đặc biệt ở Hương Ngải, thời phong kiến được dùng làm nơi dùi mài kinh sử của sĩ tử trong làng, nơi tiễn các sĩ tử đi thi và cũng là nơi đón các quan Tân khoa về vinh quy bái tổ.
[9] Câu hát trong làn điệu chèo "Sa Lệch Chênh" ở vở chèo "Lưu Bình Dương Lễ".
[10] Giếng Ngọc: Một cái giếng cổ bên phải quán Nghinh Hương.
[11] Linh thụ: Mô phỏng theo hình dạng của chòm sao Bắc Đẩu, người xưa đã trồng quanh quán Nghinh Hương bảy cây (Bốn cây phía trước, ba cây phía sau) tượng trưng cho Thất tinh. Các cây này được gọi là linh thụ.
[12] Trong tích chèo "Lưu Bình Dương Lễ", Lưu Bình và Châu Long gặp nhau ở quán Nghinh Hương.
[13] Ca dao Việt Nam: "Phải duyên thì dính như keo / Trái duyên chổng chểnh như kèo đục vênh".
[14] Trọng nghĩa khinh tài: Ý nói coi trọng đạo nghĩa và không tham lam tiền tài.
[15] Anh Quý vấn khăn kiểu chữ "Nhân".
[16] Châu về Hợp Phố: Ý nói vật đã trở về tay chủ.
[17] Ngọc báu liên thành: Ý nói vật rất quý giá.
[18] Câu thơ trong tác phẩm "Đoạn Trường Tân Thanh", hay còn gọi là “Truyện Kiều" của tác giả Nguyễn Du.
[19] Một kỷ là mười hai năm.
[20] Theo "Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục" - Chính Biên - Quyền XXXVI: "Quan nhất phẩm, nhị phẩm kiệu bảy đòn khiêng, từ tam phẩm đến ngũ phẩm, kiệu ba đòn khiêng; từ lục phẩm trở xuống, võng ba đòn khiêng, đòn khiêng dài dùng hình thẳng; thứ dân, đòn khiêng võng dùng bằng tre".
[21] Tri huyện Quảng Đức: Tri huyện của huyện Quảng Đức. Huyện Quảng Đức thời Lê Trung Hưng thuộc phủ Phụng Thiên, về sau đổi tên thành Vĩnh Thuận.
[22] "Cậu giời": Ý nói rất vênh váo. "Cậu giời" là con cóc. Ca dao Việt Nam: "Con cóc là cậu ông trời / Ai mà đánh cóc thì trời đánh cho".
[23] Dức: Nhức.
[24] Nhời: Lời.
[25] Đoan Nam Vương tức là Trịnh Khải, một vị chúa của dòng họ Trịnh. Theo "Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục" - Chính Biên - Quyền XLVI: Tháng tư năm Ất Tỵ (1785): "Lúc ấy, mưa mãi không thôi. Trịnh Khải hạ lệnh cho bầy tôi và thứ dân nói thẳng những điều hay, điều dở.".
[26] Từ Thức gặp tiên: Trong truyện "Từ Thức Tiên Hôn Lục" thuộc tác phẩm "Truyền Kỳ Mạn Lục" của tác giả Nguyễn Dữ, Từ Thức gặp được nàng tiên là Giáng Hương rồi nên duyên vợ chồng với nàng.
[27] Ca dao Việt Nam: "Tháng tư có nắng nhưng là nắng non".
[28] Trảng: Một loại nắng rất gay gắt và khó chịu.
[29] Sềnh sềnh: Lù lù.
[30] Theo "Vũ Trung Tùy Bút” của tác giả Phạm Đình Hổ, lính đội nón trạo lạp, tục gọi là nón chèo vành, còn người hầu và vợ con lính tráng thì đội nón viên đầu, tục gọi là nón khùa.
[31] Quan trưởng: Theo “Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục” - Chính Biên Quyền XXIV: “Viên quan hàm thất, bát và cửu phẩm xưng là quan trưởng".
[32] Những đặc điểm về ngoại hình của Hồ Xuân Hương được tác giả lấy cảm hứng từ ca dao: "Cổ tay em trắng như ngà / Con mắt em liếc như là dao cau / Nụ cười như thể hoa ngâu / Cái khăn đội đầu như thể hoa sen".
[33] Tuy một số nguồn tin cho rằng đã tìm thấy ngày tháng năm sinh, năm mất của Hồ Xuân Hương bằng các cách khác nhau, nhưng bản thân tác giả thấy các cách làm đó chưa thực sự đáng tin cậy về độ chính xác. Bởi vậy tác giả xin phép chú thích: Hồ Xuân Hương chưa rõ năm sinh năm mất, tuổi tác của Hồ Xuân Hương trong tác phẩm này không phải thông tin chính xác.
[34] Chân trắng: Ý nói không đỗ đạt gì.
[35] Sinh đồ ba quan: Theo suy đoán của tác giả, đây là cách gọi mỉa mai của người đương thời với những kẻ đỗ đạt không do tài năng của mình mà do tiền của. Theo "Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục" - Chính Biên - Quyền XXXIX: Con trai từ 10 tuổi trở lên, được phép nộp tiền "thông kinh" mỗi người 3 quan, rồi nộp đơn ứng thí, được miễn khảo hạch. Thi hành việc này, chỉ cốt thu được nhiều tiền, mà không đếm xỉa đến người có học hay không có học. Dầu bọn đồ tể, lái buôn cùng trẻ con 3, 4 tuổi, khi đi thi, không câu nệ mượn người làm gà hoặc đem sách vở vào trường, hễ ai có tên ở kỳ đệ tam tức là hạng "sinh đồ", chỉ có một điều là không được vào thi kỳ đệ tử. Đến khoa sau, trong số người này, nếu người nào thực có học lực, cũng chiếu theo thể lệ "khảo thi người hay chữ" ở phủ, được vào trường thì đối sách".
[36] Tắt mắt: Ăn cắp vặt.
[37] Câu đầy đủ là "Chó nhảy bàn độc", chế giễu những kẻ vô dụng, bất tài nhưng lại ở vị trí, chức vụ cao.
[38] Tục ngữ Việt Nam.
[39] Trích "Cung Oán Ngâm Khúc" của tác giả Nguyễn Gia Thiều.
[40] Bầu dục chẳng đến bàn năm: Ý nói không thể có được những thứ mà địa vị, thân phận của mình không đủ điều kiện để sở hữu.
[41] Khi nhắc đến vợ cả của cha, con của các bà vợ bé sẽ gọi người vợ cả của cha là "mẹ già".
[42] Nạn trộm cắp trong truyện lấy cảm hứng từ ghi chép của Phạm Đình Hổ trong "Vũ Trung Tùy Bút" về nạn trộm cắp ở chợ và được tác giả sáng tạo thêm.
[43] Quân Tam phủ: Theo "Binh chế chỉ" trong Lịch triều hiến chương của Phan Huy Chú: Các quân lính đóng ở kinh thành để chầu chực bảo vệ chuyên dùng lính ba phủ thuộc Thanh Hoa và 12 huyện thuộc Nghệ An. Có lẽ vì thế nên Thanh Nghệ ưu bình gọi chung là Tam phủ. Năm 1782, ưu bình có công đưa Trịnh Khải lên ngôi chúa nên chúng rất kiêu ngạo, càn rỡ, người đời gọi là “Kiêu binh". Theo "Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục" - Chính Biên - Quyền XLVI: (Tháng hai năm Giáp Thìn tức năm 1784) "Quân sĩ mỗi khi ra ngoài kéo từng đàn hàng trăm hàng ngàn người, tung hoành nơi thôn xóm, tự ý cướp bóc thả cửa. Quân sĩ nào đi đường một mình, thường bị dân quê đón đường giết chết. Quân và dân coi nhau không khác gì giặc cướp thù hằn.
[44] Ca dao Việt Nam: "Nhớ ai con mắt lim dim / Chân đi thất thểu như chim tha mồi".
[45] Bài thơ "Quả Mít" của tác giả Hồ Xuân Hương: "Thân em như quả mít trên cây / Da nó xù xì múi nó dày / Quân tử có thương thì đóng cọc / Xin đừng mân mó nhựa ra tay".
__________
Nếu bạn yêu thích tác phẩm này, hãy bình luận nêu cảm nhận cho chúng tớ biết nha.
Bình luận
Chưa có bình luận