Đã hai ngày kể từ khi tiễn tụi bạn về quê. Trong quãng thời gian này, Lan đã được bà giải thích cặn kẽ về những việc cũng như những thứ mình cần làm với tư cách người thừa hưỡng linh lực từ dòng tộc.
Lúc này Lan mới hiểu rõ tên gọi đúng của “cái nghề” mình được truyền lại. Đó không phải là “pháp sư” như những gì người thành phố hay dùng mà là hai chữ “thầy mo” rất đỗi bình dị.
Đây là một danh xưng cổ xưa bắt nguồn từ các dân tộc thiểu số như Thái, Mường, Tày, Dao đã tồn tại lâu đời ở nước ta. Thầy mo không phải chỉ là người làm phép mà còn là người gỡ rối, giải đáp những uẩn khuất ẩn sâu trong mối liên hệ giữa người sống và kẻ chết.
Nhưng cách nhìn rõ và phân biệt xem đâu là nghiệp, đâu là oán, đâu là điềm thì nó vẫn khá mới mẻ và vô định với Lan.
Không giống như khái niệm pháp sư được du nhập từ Trung Hoa. Họ thường được biết đến như những người chuyên luyện phép, dùng bùa chú và linh phù để chiêu hồn, bắt ma, sai khiến linh hồn.
Thầy mo theo lẽ thường thì sẽ không sai khiến mà chỉ giao tiếp với vong linh. Họ sẽ dùng kiến thức, ngôn ngữ và nghi lễ để thuyết phục, giúp vong siêu thoát hoặc hóa giải oan nghiệt.
Đó là cách làm thường thấy của thầy mo hành nghề nhưng đối với dòng tộc Lan lại hơi khác đi một tẹo. Trước mặt dân làng vào ban ngày họ vẫn là những “mo” đúng mực nhưng khi về đêm họ lại tự đặt ra cho mình một quy tắc khác.
Đó là nếu không giúp siêu thoát được thì phải diệt. Và đương nhiên không phải ai hành nghề này trên nước mình đều gọi là thầy Mo. Chẳng hạn như Tuấn, cậu là một thầy bùa xuất xứ từ vùng núi cao.
Hiểu đơn giản thì đây là những người dùng bùa để tạo kết giới, để trấn yểm hoặc trừ tà dứt khoát. Bùa của họ thường có những vật dẫn dắt như máu, tóc, hình nhân,… Và thầy bùa sẽ thiên về hành động, dùng nội lực, đôi khi đan xen giữa bảo vệ và tiêu diệt.
Thế nên động tác trừ tà của Tuấn có phần dứt khoát và quyết liệt hơn rất nhiều so với bà Mai. Nghề nào cũng cần có sứ mệnh riêng để tuân theo. Và Lan cũng dần chấp nhận số phận của mình.
Cô bắt đầu học nghề vào một buổi sáng đầy sương, chóp mũi tràn ngập mùi nhang trầm toả ra khắp căn nhà nhỏ cuối làng. Giữa gian phòng, Lan ngồi khoanh chân trên chiếc chiếu cói, trước mặt là bàn cúng được hai bà cháu bày ra từ lúc chập chờn sương sớm.
Đồ vật trên bàn cũng không nhiều lắm. Có một bộ tam sên gồm một miếng thịt ba chỉ luộc tượng trưng cho Thổ, ba quả trứng luộc tượng trưng cho Thiên, ba con tôm luộc tượng trưng cho Thủy.
Bên cạnh lại đặt những vật mang đậm nét truyền thống có thể tìm thấy ở bất kỳ nhà ai trong làng như trầu cau, rượu trắng, bánh chưng.
Ở giữa bàn là hương đèn và nhang trầm - thứ không thể thiếu trong các buổi lễ.
Lan lần lượt thực hiện từng động tác, vái lạy những câu khấn theo sự chỉ bảo của bà Mai. Qua một canh giờ, khi nhang đã tàn chân cũng là lúc nghi thức nhận mo mới kết thúc.
Trong cả tuần tiếp theo, Lan cứ lẽo đẽo như cái đuôi nhỏ đi theo bà Mai chinh phục giáo trình “sơ cấp” nhập môn.
Vào một đêm khuya thanh vắng, khi trăng non vừa nhú trên đầu núi. Cả làng vùi mình trong không gian tĩnh mịch chỉ còn lại ánh đèn dầu chập chờn le lói trên con đường đất dẫn đến cuối làng.
Lan đi theo sau bà, tay ôm khư khư mớ lễ vật của buổi học hôm nay.
Gồm có một bó nhang gói trong giấy đỏ, một chai rượu gạo, một đĩa trầu cau được têm sẵn và vài thỏi vàng mã bà dạy Lan gấp từ sáng.
Đi mãi, cuối cùng bà Mai dừng lại trước một ngôi miếu nhỏ sát mép rừng.
Men theo ánh đèn dầu lập lòe, cô nhìn thấy bên trong miếu là một bàn thờ cũ. Trên bàn thờ có bát hương đầy ắp chân nhang, phía sau có treo một tấm bài vị ghi bằng chữ Nôm mà cô đọc không hiểu.
Giọng nói nghiêm nghị của bà vang lên trong bóng tối.
“Trước tiên, bà sẽ dạy con cách thắp nhang.”
Cô nuốt nước miếng, nghiêm túc gật đầu. Bà Mai dạy cho cô cách bốc nhang và số lượng nhang cần thắp trong các dịp lễ.
Nếu bốc các số lẻ như một, ba, năm, bảy,... nó sẽ đại diện cho yếu tố dương và mang lại may mắn. Còn nếu bốc nhang theo những số chẵn như hai, bốn, sáu, tám,… nó sẽ biểu trưng cho yếu tố âm.
Vì thế nên theo từng loại lễ và mục đích sẽ thắp số nhang tương ứng. Sau khi xác định xong số lượng, sẽ dùng lửa từ đèn dầu, đèn cầy hoặc hột quẹt để thắp nhang.
Nhưng lưu ý nếu muốn dập bớp ngọn lửa đang phập phồng trên đầu nhang thì tuyệt đối không được dùng miệng thổi.
Phải dùng tay phẩy để lửa tự dập theo hướng gió. Sau đó sẽ dùng hai tay cầm nhang đưa lên ngang trán.
Bà Mai dặn dò kỹ càng.
“Khi đã cầm nhang con phải giữ cho tâm mình tịnh, không được suy nghĩ tầm bậy tầm bạ. Còn khi khấn thì phải khấn rõ ràng, không lắp bắp.”
Lan gật đầu tim đập thình thịch, cô khấn theo lời bà dạy.
Khấn xong, lúc cắm nhang vào bát do quá áp lực nên tay cô run nhẹ. Một que nhang theo đó cũng nghiêng theo.
Bà Mai liếc nhìn, gắt giọng.
“Con rút ra, làm lại. Cắm nhang mà xiên vẹo thì sao tâm thẳng được.”
Hiếm khi nào bà gắt giọng với cô như thế nên Lan biết rằng điều này vô cùng quan trọng. Cô cúi đầu, rút nhang ra cắm lại với vẻ mặt nghiêm túc, không dám lơ là dù chỉ một giây.
Sau khi bày biện xong mâm cúng, bà Mai ngồi xuống chiếu, rút từ tay áo ra một tấm khăn đỏ được gấp thành hình vuông.
Bên trong là một mảnh gương nhỏ, một sợi chỉ đỏ và một cái chuông đồng. Bà đặt tất cả trước mặt Lan.
“Tiếp theo, con sẽ học gọi hồn. Nhưng bây giờ vì chưa đủ sức gọi ra thực thể nên con sẽ thử gọi trong gió.”
Lan tròn mắt ngạc nhiên.
“Gọi gió á bà?”
“Ừm. Trong gió cũng có hồn, có vía.”
Bà Mai hạ mắt, đốt ba nén nhang mới rồi vạch một vòng tròn nhỏ quanh chiếu. Khói nhang uốn lượn, loang hương thoang thoảng trong đêm đen.
“Đêm nay rượu ấm bên đèn,
Tiếng ai gọi khẽ giữa rừng không tên.
Rừng khuya chẳng dấu chân quen,
Chén đã rót sẵn, mời người ghé lên.”
Dứt lời, tiếng gió rít ngoài rừng bỗng im bặt, chiếc chuông không ai động lại tự mình rung lên. Tiếng “leng keng” dồn dập vang lên giữa đêm canh ba. Lan rùng mình, hai tay lạnh ngắt run run đan vào nhau.
Bà Mai liếc nhìn đứa cháu gái, thì thầm.
“Con thấy chưa? Gọi hồn không phải cứ hét to là được. Con phải mời bằng tâm, bằng lòng thành của mình. Vì nếu lỡ có gọi nhầm thứ không nên gọi thì cũng còn giữ được cái mạng.”
Lan cúi đầu, trống ngực đập mạnh từng cơn.
Sau đó, bà dạy cô cách khấn chư vị, cách lạy đủ bốn phương.
Lan còn học cách phân biệt các loại nhang. Loại nào dùng để cúng tổ, loại nào dùng để để cúng vong, loại nào dùng để xua tà. Cô được tập cách nghe tiếng chuông, nhìn hướng khói nhang tản ra để biết vong đã về hay chưa.
Trời đã hửng sáng, bà Mai có việc về trước, bảo Lan ở lại thu lễ.
Cô ngẩng đầu lên, cơn gió mang mùi sương sớm phảng phất hương lúa non nhẹ nhàng thổi qua. Ngay sau rặng tre, nơi ánh bình minh len lỏi vào từng kẽ lá, Tuấn chầm chậm xuất hiện.
Cậu ấy thong thả bước đến, hai tay vẫn đút vào túi áo như thể chẳng hề vội vã hay sợ hãi gì sau một đêm tuần tra quanh làng. Cảnh tượng Tuấn xuất hiện lúc nào cũng như nhân vật chính trong phim truyền hình khiến đứa mê sắc đẹp như Lan ngẩn ngơ. Cô hắng giọng chữa ngượng.
“Cám ơn đêm qua đi tuần dùm bà tớ nha.”
Tuấn không trả lời câu nói khách sáo trống rỗng này. Cậu bước đến trước mặt Lan, chậm rãi đáp.
“Học gì mà tay chân run lẩy bẩy, thở hồng hộc lại còn đọc sai. Không bị vong rình cũng phí.”
Lan nghẹn họng ngay tức thì.
“Run hồi n... mà khoan, sao cậu biết?”
Tuấn nhướng mày nhìn Lan, tiếp tục khiêu khích.
“Đã vậy còn cắm nhang sai. Cây xiên cây vẹo.”
“Ê ê ê không có nha. Cậu đứng đâu rình vậy?”
“Ai thèm rình.”
“Đừng có xạo, không rình sao cậu biết tớ mắc lỗi?”
“Chịu nhận sai rồi hả?”
Thấy cô sắp trên đà thẹn quá hóa giận, cậu không đùa nữa mà giải thích ngắn gọn.
“Không có rình thiệt. Tôi nghe vong kể.”
Trước vẻ mặt bất ngờ của cô, Tuấn quay mặt đi thẳng về phía làng, tiện tay nhặt một vài cây nhang vương vãi trên đất.
“Sao còn đứng đó? Không về à? Muốn tôi dạy cho vài câu khấn để hết quê không?”
Lan siết chặt nắm tay, chạy bước nhỏ theo bóng lưng phía trước. Vừa chạy vừa nghiến răng ken két.
“Đây không thèm ngại nhá! Đợi đi, mốt tớ học xong thì khỏi cần cậu tới cứu nữa.”
Tuấn khẽ cười, không rõ là cười cô hay cười tình huống lúc này.
“Biết sợ thì học nhanh lên. Tôi cũng không phải thần hộ mệnh của cậu.”
Trời lúc này đã sáng hẳn, Lan nghe rõ tiếng tim mình đập từng nhịp rõ ràng nhưng không phải vì sợ cũng không phải vì rung động mà là vì tức quá không có chỗ xả.
Sau một tháng, cuối cùng Lan cũng coi như đã “đủ điểm” để qua được lớp sơ cấp. Còn việc học trên thành phố, cô đã nhờ đám bạn làm đơn bảo lưu giúp mình.
Hôm qua sau khi kết thúc buổi học, bà Mai nói sẽ trao cho Lan một vật vô cùng quan trọng của thầy mo. Nên từ đêm qua đến giờ, cô cứ thao thức suy nghĩ không ngừng về nó. Đúng mười hai giờ trưa hôm sau, khi mặt trời đứng bóng cũng là lúc cả ba tụ họp đầy đủ trong căn phòng nhỏ trên tầng hai.
“Ngồi xuống đi con, bà cho con coi cái này.”
Lan ngoan ngoãn ngồi xuống ghế đối diện.
Tuấn thì đứng dựa vào vách tường bên cạnh, hai tay khoanh trước ngực. Nhưng ánh mắt cậu không dửng dưng nhìn thẳng như mọi ngày mà lại dán chặt vào cái túi bà Mai đặt giữa bàn. Vì Tuấn biết đó không phải vật tầm thường.
Bình luận
Chưa có bình luận