Chương 5: Lẫy nỏ


Trong câu chuyện của Lạc Dực, Vô Ưu tìm về với nước Âu Lạc thuở xưa, khi Phong Khê vẫn là một vùng sầm uất, giao thương tấp nập, có cung điện tráng lệ uy nghi, có Loa thành [1] nằm trên đồi cao trông ra được cả đồng bằng châu thổ màu mỡ và sơn địa hoang dã xa xôi.


Nghe đâu, cái thành ấy được xây nên nhờ sự giúp sức của thần Kim Quy, là thành lũy vững vàng và kiên cố nhất của xứ Âu Lạc. Gần bốn mươi năm sau cuộc binh biến, Loa thành vẫn vững vàng ở đó, duy chỉ có người đã khuất bóng xa.


“Thần Kim Quy là con rùa mà thầy muốn rút móng ạ?”


“Ừ. Nhưng phải gọi là cụ rùa đấy, nhớ chưa?”


Lạc Dực sửa đúng lại cách xưng hô cho Vô Ưu rồi mới tiếp tục câu chuyện của mình. Câu chuyện về nàng Mị Châu đẹp nhất Phong Khê, về cuộc liên hôn giữa hai nhà Thục - Triệu, khi nàng lạc nữ trao nhầm niềm tin vào tay giặc để rước lấy kết cục nước mất nhà tan, đầu lìa khỏi xác [2].


Kể đến cuối cùng, Lạc Dực còn nghe được tiếng khụt khịt từ gian nhà bên. Hẳn là Vô Ưu đang thương tiếc cho nàng Mị Châu.


“Mùi hoa ban ở đâu ý, nước mũi con nó chảy ròng này!”


Vô Ưu không thích mùi hoa ban, mà trước nhà lão trưởng làng lại trồng một cây đang vào mùa chớm nụ trổ bông.


Lạc Dực thở dài, lúc này mới nhớ đứa học trò của hắn làm gì biết xót ai được quá năm giây đâu.


“Vậy con biết vì sao ta lại mang con đến đây không?”


Đúng là việc lấy móng của thần Kim Quy chẳng dễ, mà một khi đường thẳng đã khó đi thì ắt vẫn còn đường ngang ngõ tắt khác đáng để đánh cuộc.


Chẳng là năm xưa, một trong hai lạc tướng đã góp công chế tạo nỏ liên châu từ móng thần Kim Quy là Đào Hãn [3], sống ở làng này. Sau khi Âu Lạc mất nước, Đào Hãn cùng dân làng đã đứng lên chống trả quyết liệt giặc Triệu.


Vì không muốn tốn thêm binh, cũng sợ cuộc nổi dậy này sẽ cổ vũ dân Lạc Việt và những bộ tộc lân cận khác noi theo, nên Triệu Đà đã phái con trai mình là Triệu Trọng Thủy đến để dụ dỗ Đào Hãn quy hàng. Đáng tiếc, chẳng những không thể dẹp yên được cuộc phản loạn của đám lạc dân mà Nam Việt Vương còn mất luôn cả đứa con trai mình và lẫy nỏ thần vừa cướp được.


Trọng Thủy đã giao thứ mà y trộm được từ vương cung của vua Thục cho Đào Hãn, sau đó về lại Loa thành, nhảy xuống giếng tuẫn tình theo vợ.


Đúng là một kẻ si cuồng, Lạc Dực thầm nghĩ, nhưng nhờ y, hắn mới có được cái “ngõ tắt” vòng vèo này để đoạt lấy móng của sứ giả Thanh Giang [4]. Bởi gần bốn mươi năm trước, khi Đào Hãn cùng hai người con trai của mình bị quân Triệu Đà vây chặt, đã gieo thân xuống giếng Mỏ Gia để giữ trọn khí tiết trước mối thù chiếm đánh nước nhà. Lẫy nỏ sau đó vẫn được người làng cất giấu và đem thờ trong nhà tổ.


Thế nên, Lạc Dực mới phải chọn ngôi làng này làm địa điểm dừng chân đầu tiên.


Khi sáng, hắn đã trình bày mong muốn được mượn lẫy nỏ một thời gian với trưởng làng, đợi khi mở được màn chắn Đáy Vực, chắc chắn sẽ đem thần vật hoàn trả. Ông lão sau một hồi do dự cuối cùng cũng đồng ý, phần vì cái ơn của Lạc Dực lớn quá, phần vì lẫy nỏ giao vào tay đức thánh tộc mình, chứ cũng chẳng phải người phương Bắc mà sợ mất.


Nhưng dẫu gì hai thầy trò vẫn phải chờ cho qua ba ngày lễ đầu năm, sau khi trưởng làng đã lập đàn xin ông Hãn ứng cho thì mới được phép thỉnh lẫy nỏ từ bàn thờ giao cho đức thánh.


Lễ làng thường được tổ chức từ ngày mùng Tư đến mùng Sáu tháng Giêng, vốn là ngày hóa của Đào Hãn và hai người con trai. Mỗi năm dịp này, người làng thường tổ chức lễ đua chải [5] ở khúc sông nằm gần mé rìa làng. Năm nay, Chiêm Trạch có hai đội chải đua với nhau, đội nào thắng cuộc sẽ được đại diện thỉnh lẫy nỏ từ nhà tổ ra giữa làng để làm lễ tế.


“Lễ có lâu không hả thầy?” Vô Ưu nói, giọng đã hơi ngà ngà buồn ngủ.


Nếu trời không giữa khuya khoắt, chắc nàng đã nhảy lên vỗ tay một trận ra trò để nịnh hót thầy mình. Người đâu mà thông minh thế, đến cái móng bị đem ra làm thành lẫy nỏ, khéo gần nửa thế kỷ rồi mà vẫn còn nhớ ra!


“Không lâu đâu. Nay mùng Ba rồi, thầy trò ta đến vừa đúng lúc ngày mai là ngày lễ đầu.”


Lâu lắm rồi hắn chưa được dự một phiên lễ chốn dân gian và Vô Ưu thậm chí còn chưa được nhìn thấy lạc nam lạc nữ kết bè trẩy hội, áo quần xúng xính bao giờ. Lạc Dực nghĩ thầm, thôi thì tiện thể vui chơi một đoạn cũng chẳng sao.


Nhưng tính Vô Ưu ham vui lại tò mò, lễ lạt người ta đổ ra đông, dễ bề xảy ra chuyện chẳng hay. Lo lắng, Lạc Dực mới phải giở cái giọng bề trên như thường lệ, dặn dò nàng:

“Ngày mai chắc đông đúc lắm, con nhớ phải theo sát ta, không được chạy loạn nghe chưa?”


Không có tiếng người đáp lại, chỉ có tiếng thở khò khè đều đều vang lên, Vô Ưu chẳng biết đã ngủ quên từ lúc nào. Lạc Dực phóng thần thức xuyên qua gian bên, nhìn khuôn mặt nhuộm đẫm ánh trăng đêm của thiếu nữ đang an nhàn say giấc một lát, đoạn mới vừa lòng thu hồi pháp thuật, khép hờ mắt lại.


***


Sáng ra, Vô Ưu bị tiếng ồn ào ngoài sân đánh thức. Nàng tỉnh giấc, dụi dụi mắt, nhìn qua kẹt cửa thấy mặt trời đã lên tít trên ngọn cây. Giờ này dân làng hẳn đã nấu xong mâm cúng, còn đám trai gái đang nô nức chuẩn bị cho cuộc đua chải buổi đầu giờ chiều.


Lúc ra ngoài, Vô Ưu thấy Lạc Dực đứng nói chuyện với trưởng làng, kế bên là Đống Quân và năm, sáu lạc nam khác đang kiểm tra mái chèo, chải bơi. Nàng bèn chạy lại phía thầy, lay lay tay hắn.


“Dậy rồi à?”


“Thầy ơi sao gà không gáy? Hồi ở Hang Hao, con có bao giờ dậy muộn thế này đâu!”


Mặc dù chẳng mấy người để ý, thầy nàng lại càng dung túng cho, nhưng Vô Ưu vẫn quyết tâm vớt vát lại hình tượng đôi chút, không thể để người khác nghĩ bản thân là đồ lười được!


“Ừ nhỉ, lúc sáng ta cũng không nghe thấy.” Lạc Dực đáp với vẻ mặt nghiêm trang. “Chắc là gà ở đây không gáy sáng.”


Trưởng làng trợn mắt khi nghe lời giải thích của đức thánh tổ. Đã vậy nhìn sang nàng lạc nữ giương to đôi mắt thơ ngây, gật đầu tin tưởng cái lý do gà chó còn chê đó, ông lão cạn lời. Là ai khi trời tờ mờ sáng đã dạo các chuồng gà quanh khu vực mà gian phòng Vô Ưu ngủ có thể nghe đến, trừng mắt dọa khiến bọn gia cầm lắm lông súc ở trong ổ không dám ra đàng mà gáy gọi người dậy kia chứ?


May mà hôm nay lễ, thời điểm đó dân làng cũng đã dậy cả mà không cần đến tiếng gà.


Hai thầy trò này, đúng là một người nói bậy, một người chịu nghe!


Lạc Dực lại tiếp tục dặn dò Vô Ưu. “Lần sau dậy muộn tí cũng được! Mấy hôm đi đường xa, con có ngủ được tí nào đâu.”


Vô Ưu mãi vẫn chưa thấy gật đầu như trống bỏi, tỏ vẻ nghe lời Lạc Dực như mọi hôm. Nàng đang bận phân vân giữa giữ hình tượng một lạc nữ chăm chỉ trưởng thành để thầy bớt mang tiếng dạy dỗ con trẻ không khéo với việc được ngủ thêm dăm ba canh giờ nữa.


Lúc này, Đống Quân và đồng bạn đang mân mê lau chùi cái trống thật lớn giữa sân. Vô Ưu tròn mắt nhìn sang, đoạn chỉ vào trống, hỏi.


“Cái gì thế hở thầy?”


“Trống đồng mà cũng không biết, bảo là quân phương Bắc còn chẳng nhận!”


Lạc Dực chưa kịp trả lời thì Đống Quân đã chen vào mỉa mai. Vô Ưu phồng mang lên cãi lại:


“Tôi biết thừa nó là trống đồng, nhưng chưa thấy cái trống nào huơ hoác trần trụi, không có hình vẽ thế kia thôi!”


Xì, trống đồng ấy à, cái ổ nhỏ của hai thầy trò ở Hang Hao không có nhưng thần điện của Không tộc thì đầy ra!


Đống Quân còn định lên tiếng nói gì đó thì nhận được cái lườm cháy má của cha mình, bèn vội vàng ngậm chặt miệng lại tiếp tục lau chùi trống đồng. Lúc này, khi tứ bề đã yên ắng cả, Lạc Dực mới ôn tồn giải thích.


“Chiều nay sau hội đua, lễ tế mới là lễ khắc trống đồng. Những tay thợ trác tuyệt nhất dưới sự chỉ huy của thầy mo làng sẽ khắc khung cảnh của phiên hội hôm nay lên trống.”


Vô Ưu gật đầu, đi loanh quanh nhìn ngắm cái trống to, mặc kệ ánh mắt dè chừng của đám lạc nam. Chất đồng loe lóe lên dưới cái nắng mặt trời ban trưa, Vô Ưu dường như trông ra được cả sự hào hùng, uy nghi của cái trống sau khi công cuộc chạm khắc hoàn thành.



Chú thích

[1] Loa thành: thành Cổ Loa


[2] Truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thuỷ


[3] Đào Hãn: theo thần tích làng Chiêm Trạch, Đào Hãn là một tướng tài dưới thời An Dương Vương. Ông là người làng Hương Canh (tỉnh Vĩnh Phúc), lấy vợ người làng Chiêm Trạch nên định cư ở đây.


[4] Sứ giả Thanh Giang: tên gọi khác của thần Kim Quy.


[5] Đua chải: dạng như đua thuyền. “Chải bơi là cây gỗ khoét hình thoi. Hai giáp bơi hai chải có mũi đầu bạc - cờ đuôi nheo màu vàng và mũi đầu rồng - cờ đuôi nheo màu đỏ tía. Mỗi chải có 7 nam giới và 12 đô bơi là các cô gái chưa chồng.” (trích từ “Làng Chiêm Trạch” - Hà Nội Mới)



0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout