Bác Hùng kể xong hai hàng nước mắt đã chảy dài, bàn tay thô ráp đưa lên lau vội. Không khí như nghẹn lại, sống mũi ai cũng cay xè. Thật ra chuyện tâm linh đúng là sâu không thấy đáy, không nhìn thấy nhưng không dám phủ nhận sự thật đáng sợ của nó. Như ngay từ đầu tôi đã nói “có những thứ khoa học không thể chứng minh được nhưng lại không phủ nhận sự tồn tại của nó”, có những chuyện nghe kể thôi cũng đủ rùng mình chứ chưa cần chứng kiến thực tế.
Lần này thì chẳng còn ai hào hứng nghe truyện ma nữa, cảm giác nghẹn ở cổ. Chú Hồng cũng im lặng rót rượu cho mọi người, uống vài ngụm bác Hùng lại khôi phục trạng thái ban đầu, bác cười cười.
“Ơ kìa, sao mọi người im thế. Có sao đâu mà, không khí đang vui chúng ta kể cái khác đi. Chú Nhân trước không phải nhà chú ở cạnh luôn sông Mã à, kể lại vài vụ hôm bữa chú nói cho tôi đấy.”
Chú Nhân nhăn mày suy nghĩ xem đã kể vụ gì, một hồi sau chú như nhớ ra.
“À, vụ đó là…”
….
Theo dòng hồi ức của chú Nhân, chú đưa chúng tôi về dầu những năm 2000. Khi ấy chú còn nhỏ, mới độ đâu chừng mười mấy tuổi. Bố chú làm chân gác đêm ở trên cầu Hàm Rồng cũ. Thời ấy cây cầu Hoàng Long bắc ngang qua con sông Mã mới vừa được xây xong, vậy nên các phương tiện qua lại hầu như đều đi trên cây cầu đó. Đường bên cầu Hàm Rồng trở nên vắng vẻ, thi thoảng mới có vài người đi chợ phiên qua lại. Chú Nhân lúc đó ra trực gác với bố. Đêm nằm khó ngủ, chú lại bảo bố kể cho vài câu chuyện liên quan đến cây cầu Hàm Rồng. Ngoài những sự kiện lịch sử, bố chú còn kể thêm những sự kiện kì bí liên quan đến cây cầu này.
Câu chuyện chú nhớ nhất là “Cặp đôi áo trắng trên cầu Hàm Rồng”.
Chuyện này phải kể từ lúc bố chú Nhân mới vừa đến đây gác trạm. Thời ấy ông Ngợi - bố chú, được phân về gác ở cầu Hàm Rồng để canh trạm. Ông Ngợi thường làm ca ngày nhưng hôm đó vì nhà người gác ca đêm có việc bận nên xin đổi ca với ông. Đúng 8 giờ ông Ngợi ra nhận ca. Đêm hôm ấy sương rơi nhiều tới lạ. Ông Ngợi ngồi ngoài buồng gác, hai mắt ông đăm chiêu nhìn về phía cây cầu Hàm Rồng. Trong lòng nghĩ ngợi linh tinh một hồi. Thời ấy người gác đêm chỉ được phát cho một cây đèn pin, cùng vài thứ đồ linh tinh phục vụ sinh hoạt. Chứ chẳng có ti vi xịn hay điện thoại để lướt mạng coi phim như bây giờ. Con đường này ngoài mấy người đi lấy hàng vào tờ mờ sáng thì ban đêm thường rất vắng vẻ. Ngồi lâu thấy chán ông Ngợi mới vào trong lấy ra một cái đài radio cũ, đồ vật này là của người gác trước để lại. Ông bật lên rồi chỉnh sang kênh đang phát bài hát xẩm quê nhà.
“… Tưởng bạc như vôi mà
Người nghe tưởng bạc như vôi
Tưởng tất cả ném quê trôi xuống ghềnh!
Tưởng như một mảnh chẳng lành
Chặt băm vụn vỡ cả cành lẫn cây!
Đùa là đùa vậy cho hay
Chứ đùa là đùa vậy cho hay
Quê hương muôn thuở
Chứ nghìn ngày vẫn quê!
Răng rứa mô tê
Chứ nói gì răng rứa mô tê…”
Thanh âm làn điệu xẩm phát ra qua cái loa cũ rè rè như điệu người rưng rức đang bày tỏ về nỗi lòng với quê hương. Ông Ngợi nhắm mắt, tay gõ thành nhịp trên đùi, miệng lẩm nhẩm hát theo. Tiếng đài cứ réo rắt như vậy, hát qua từng bài. Mãi đến gần 11 giờ ông Ngợi đi kiểm tra một vòng quanh cầu rồi mới an tâm đóng cửa buồng gác lại để ngả lưng ít phút. Thời tiết tháng Sáu oi bức, ông Ngợi mở cửa sổ ra cho gió sông lùa vào. Nghe qua tiếng cá đớp trăng dưới sông, lòng ông Ngợi cũng an tâm đôi chút. Ông nằm lên cái sạp tre, tai nghe nhạc, đầu lâng lâng muốn vào giấc. Lúc này bên ngoài cửa tự nhiên có tiếng người gõ. m thanh cứ ba nhịp một tràng gõ. Ông Ngợi lồm cồm bò dậy, lắng tai nghe lại xem có đúng là người gõ cửa không. Khi nghe lần gõ thứ hai ông vội vàng khoác áo, xỏ dép vào chạy ra mở cửa.
“Ai đấy?”
Bình luận
Chưa có bình luận