Một người đàn bà khác đã xuất hiện trong đời cậu để chia sẻ với cậu một số điều thầm kín mà cả hai người đều không tiện nói cho ai nghe. Mà cũng chính tại cái ngày cậu được thả đó, cậu từ chối về nhà ngay với mợ mà tới thẳng nhà bà ta ở để ăn ngủ một ngày. Người đàn mà tóc vàng mắt xanh mà cậu hay bị các đầu báo bắt gặp đó là bà Mơ, hay gọi một cách chân thật khác là thầy Hai, trạng sư của gia đình cậu mợ. Mợ biết được là thầy Hai qua mấy tấm hình chụp trên báo đêm đó, chắc do cái dáng người quen thuộc. Cũng tại cái sự việc bất ngờ này mà mấy ông Mỹ được nước lấn lướt: mấy ổng cho rằng cải lương không mang tính chất toàn cầu, cần phải đưa nhạc Mỹ, những câu thoại tiếng Anh và cả cô nhân tình của cậu lên sân khấu thì mới phải lẽ. Cậu từ chối. Ngặt nỗi người ta dọa nếu cậu không làm theo thì cảnh sát sẽ truy bắt cô nhân tình đó, cậu đành hứa sẽ chiều theo ý muốn của họ.
Sau một loạt sự kiện liên tục xảy ra, mọi thứ đã tạm coi là trở về quỹ đạo của nó. Cậu có nói cho ông Tút biết về việc phải đồng ý với mấy ông Mỹ đưa một số cái sự kì quặc ấy lên sân khấu truyền thống. Ổng cũng nhăn nhó đủ kiểu, rồi bảo không phải không được, nhưng hơi khó. Thôi thì ổng nói ổng sẽ cố gắng.
Dự tính cuối tháng chín, rạp Đại Hưng sẽ cho ra mắt vở mới. Vì công việc tập dợt kịch này nọ kia cần tầm ba tuần tới một tháng, rồi thì cảnh trí, phục trang nữa. Chưa kể là mợ mới sinh, cũng phải có thời gian để tới lui bệnh viện, quá trời thứ phải lo. Mà, cái phần cuối kịch bản vẫn còn để mở. Không phải vì ông Tút ổng không nghĩ ra cái gì cần để vào trong đó, mà là ổng thấy cái kết như vậy hơi buồn. Ổng chưa ưng. Ổng tâm sự với cậu mợ là cái "tâm hồn thiếu nữ" của ổng, ổng nói vậy, mỏng manh yếu đuối lắm. Xem cái tuồng nào mà như vậy là ổng khóc hết nước mắt cho coi. Nhưng mà ổng lại nhất quyết không cho cậu mợ biết cái kết tuồng chính xác, cũng khó mà đưa ra lời khuyên là nên giữ hay đổi. Cậu mợ cũng góp ý hết nước hết cái, mà ổng không nghe, vẫn là không nghe. Cũng không hiểu ổng muốn gì.
Mà lúc này, bên trong rạp thì nhốn nháo nào người nào nhân công, sửa soạn cho sân khấu. Rồi thì kịch sĩ đang ôn luyện kịch bản, chuẩn bị cho vở diễn mới, sống một cuộc sống tách biệt với Sài Gòn buổi trưa, mặc nắng bên ngoài vẫn oi bức và gây gắt.
Ông Tút bước ra trước cửa rạp, chui vô cái phòng bán vé nhỏ, ổng thơ thẩn mơ mộng nhìn ra bên ngoài. Ổng muốn tái hiện lại một thứ tình yêu ổng cho là thiêng liêng lắm, mà từ lâu đã nhạt nhòa trong lòng ổng. Trước mắt ổng là đô thị phồn hoa, là một Sài Gòn với cái danh xưng là Hòn Ngọc Viễn Đông, là nơi giao thoa của nhiều nền văn hóa khác lạ. Ổng bất giác nhớ về những cảnh vật ở quê ổng, ở Huế. Ổng lớn lên trên đất Hà Tiên, nhưng là do hơn mười năm trước ông bà già ổng chuyển về đó sống. Ổng nhớ Huế. Nhưng Huế trong trí nhớ của ổng buồn lắm, không vui như Hà Tiên, có lẽ sau này ổng đã lớn và hiểu chuyện hơn nên cái cách ghi nhận tình cảm cũng khác. Ổng nhớ những chiều chạy dọc theo con đường trước cửa nhà, ổng nhớ mấy cái Tết được ba má dắt lên chùa Thiên Mụ. Ổng muốn về thăm Huế một lần, nhưng chưa bao giờ sắp xếp để ra ngoài đó. Nửa muốn đi, để gặp, để thỏa cái tình thiêng liêng của ông, nửa lại không muốn đi vì ổng sợ, ổng sợ khi đặt chân lên đất cố đô, những thay đổi khác lạ sẽ làm cho ổng không còn yêu Huế nữa. Cậu Thu có nói với ổng, kịch bản của ổng cậu cho là viết còn non tay lắm.
Đúng là kịch bản đầu của một nhà soạn kịch trẻ mà cậu đòi hỏi sự hoàn chỉnh thì là hơi quá đáng, nhưng cậu chỉ nói hồn của kịch bản chưa trọn vẹn. Chắc là do tình cảm của ổng đặt vào vở này cũng chưa trọn vẹn, có một đôi chỗ bị lặp và đọc thấy hơi ngớ ngẩn. Có nhiều nút thắt nhưng không gỡ được hết. Ổng nhớ lại lời của cậu, muốn một lần ra Huế xem thế nào. Ổng vừa nghĩ ra là, chắc ra Huế rồi thì sẽ tìm ra mảnh ghép hoàn thiện.
Ổng xoay mình, trở vào trong rạp, mợ với cậu vẫn đang chỉ định cho mấy người đóng cảnh trí sửa sang lại mấy tấm gỗ lớn, rồi thì treo màn lên, xem tông màu cho vở diễn,...
"Thưa ông bà…", ổng rón rén lại gần cậu mợ.
"À, thầy Tút. Sao đó thầy?" , mợ hỏi.
"Tôi muốn xin ra Huế một chuyến, ngắn ngày tôi. Chủ nhật tôi sẽ về lại thành phố".
"Được, thầy cứ tự nhiên", cậu trả lời.
"Ông bà không thắc mắc vì sao à?"
"Không, chúng tôi hiểu", cậu gật gù, đặt tay lên vai ổng, "thầy cứ đi, chủ nhật chắc là cảnh trí cũng xong rồi. Thầy đi ngay cho kịp chuyến", cậu hối.
"Cám ơn ông bà", ổng hít một hơi sâu, thở dài, rồi… đi.
Ai lại vào việc nấy. Cũng không biết, người khán giả ngồi dưới những hàng ghế kia có cảm nhận được cái sự thống khổ của ông Tút, hay cậu Thu hay mợ Vân, hay bất cứ một người kịch sĩ nào khi họ chuẩn bị cho một đứa con sắp chào đời của họ hay là không; nhưng họ, những người kịch sĩ đó, vẫn cứ thích tự làm khổ bản thân mình như thế đó. Họ không thể chấp nhận một sản phẩm khuyết tật, sơ sài chỉ được dựng gấp cho thỏa cái lòng ham viết, ham diễn của nghệ sĩ. Như bầu Hùng ngày trước thường nói, cho dù sân khấu chỉ có một người nghe, ổng vẫn sẽ diễn, và diễn như thể trước mặt ổng là một rừng người đang chăm chú lắng nghe. Đối với ổng, chỉ cần có khán giả thì cái bục cao cao sẽ là thánh đường, là sân khấu của ổng. Ổng gọi đó là sự kính nghiệp.
Bình luận
Chưa có bình luận