Căn phòng thuê ở Long Biên hôm ấy ngập mùi bột sữa ngọt ngào, thứ mùi đã theo tôi suốt từ thuở lọt lòng. Tôi ngồi bệt trên nền xi măng lạnh, những ngón tay nhỏ xíu nắm chặt cây bút chì màu xanh dương, màu bà thích nhất. Từng nét vẽ nguệch ngoạc hình bình hoa trên tấm bìa cứng, mồ hôi thấm ướt trán khi tôi cố gắng viết cho thẳng dòng chữ: “Kính tặng bà yêu quý, chúc bà khỏe mạnh mãi mãi.” Tiếng trẻ con ọ ẹ trong góc phòng vang lên, nhưng tôi chẳng để ý. Tất cả tâm trí tôi dồn vào món quà nhỏ này, thứ duy nhất đứa con gái bảy tuổi có thể tặng người đã nhặt ve chai đêm đông để nuôi nó.
“Con gái bà làm gì thế?” Giọng bà Lan vang lên phía sau khiến tôi giật mình. Tôi vội che tấm thiệp bằng hai tay, mặt đỏ bừng: “Bà đừng xem!” Nhưng đôi mắt tinh tường của bà đã nhìn thấy hết. Bà quỳ xuống bên tôi, đôi bàn tay chai sạn chạm nhẹ vào mép bìa. Tôi thấy rõ những vết nứt trên ngón tay bà, dấu tích của những đêm rét mướt lục thùng rác.
“Thiệp đẹp quá…” Giọng bà nghẹn lại khi cầm món quà. Ánh mắt bà long lanh dưới ngọn đèn vàng hắt bóng lên tường. Bà kéo tôi vào lòng, hơi thở ấm áp phả lên tóc: “Con gái bà ngoan lắm. Bà sẽ giữ thiệp này đến già.” Mùi mồ hôi quen thuộc và hương cỏ khô từ áo bà ùa vào mũi. Tôi nghẹn ngào nhớ những lần bà pha sữa ông Thọ bằng nước ấm, giọng bà run run kể chuyện cổ tích trong đêm: “Tình người quý hơn vàng bạc, con nhớ không?”
Lòng tôi chợt thắt lại. Câu hỏi cũ trỗi dậy: “Tại sao mẹ con bỏ con?” Nhưng nhìn những vết chân chim quanh mắt bà, tôi nuốt trọn nỗi tủi thân vào trong. Chẳng cần lời đáp nào nữa. Vòng tay này đã nói thay tất cả.
Hai năm sau, chiếc xe khách cũ kỹ chở chúng tôi về quê ở Hưng Yên. Tôi dúi mặt vào cửa kính, mắt dán theo những ruộng lúa vàng trải dài tít tắp. “Về nhà mới rồi con ạ!” Bà Lan khẽ nắm tay tôi. Ngón tay gầy guộc run nhẹ. Mùi đất ẩm sau mưa hòa với hương lúa chín nồng nàn xộc vào mũi, khác hẳn mùi xăng xe ngột ngạt của Hà Nội.
Căn nhà nhỏ của chị Hương nép dưới rặng cau. “Mẹ đỡ đồ giùm con!” Chị Hương vang lên ríu rít từ sân. Tôi bẽn lẽn gọi “Mẹ” khi chị xoa đầu tôi. Đôi mắt hiền dịu giống hệt bà Lan. Chị Hương không bao giờ biết, mỗi lần chị ôm tôi, lòng tôi ấm áp lạ thường, như thể có mẹ thật sự.
Chiều hôm ấy, bà Sáu hàng xóm bước sang tay bê nồi cháo nóng hổi: “Chào cô cháu mới về! Ăn tạm bát cháo cho ấm bụng!” Bà cười để lộ chiếc răng cửa khểnh, chiếc áo bạc màu đậm đà vẻ chất phát: “Bà Lan có phúc lắm mới có đứa cháu ngoan thế này.” Bà nháy mắt với tôi rồi quay sang bà Lan: “Thằng cu nhà tôi vừa gặt được mẻ lúa ngon, mai xay xong, tui sẽ mang một ít sang nhé!”
Tôi ngồi bên hiên nhà nhai chậm từng thìa cháo. Tiếng bà Sáu râm ran kể chuyện làng: “Hồi trước đói kém, nhà nọ biết nhà kia hết gạo, cứ đợi tối mịt mới mang bát cơm sang cho nhau…” Bà chép miệng: “Giúp nhau lúc khó khăn mới là tình người, cháu hiểu chứ?”
Tôi gật đầu, lòng chợt ấm áp. Cách bà Sáu cho đi chẳng khác gì bà Lan, những củ khoai, bát gạo được trao đi tự nhiên như hơi thở. Tối đó, khi bà Lan chấm miếng thịt vào nước mắm ớt rồi bỏ vào chén cho tôi, tôi thầm nhủ: Mình sẽ học thật giỏi. Để một ngày, chính tay mình nấu cho bà bát canh ngon nhất đời.
Góc sân, bà Sáu lúi húi để lại rổ rau muống tươi rói, bóng bà khuất dần sau lũy tre làng. Ở nơi này, tình người đơn giản chỉ là mùi lúa mới, là tiếng gà gáy bình minh, và những bàn tay chai sạn luôn sẵn sàng nâng đỡ nhau. Tôi nắm chặt tay bà Lan, chuẩn bị cho hành trình dài phía trước, bốn mươi cây số xe buýt mỗi ngày đến trường. Nhưng lần này, tôi biết mình không cô đơn.
Quê tôi vào mỗi sớm mai thức dậy bằng tiếng gà gáy xé tan màn sương, bằng cái mùi đất ẩm nồng nàn sau những trận mưa đêm cứ bám lấy từng kẽ tay khi tôi mở cửa sổ. Mười hai tuổi, tôi đã thuộc lằm từng ngõ nhỏ, từng bờ ruộng con đường đất đỏ quyện lại sau mưa như những vệt son loang trên nền trời xám.
Chúng tôi về đây từ năm 2012, bỏ lại sau lưng Hà Nội với căn phòng trọ chật chội mùi sữa bột và tiếng trẻ khóc. Ở nơi này, sự nghèo khó có mùi vị khác, mùi rơm rạ ẩm mốc phơi trước hiên, mùi khoai sắn luộc sủi bọt trong nồi đất, nhưng cũng là mùi yên bình.
“Con ăn thêm củ khoai này mà đi.” Bà Lan dúi vào tay tôi củ khoai lang nóng hổi, hơi nước bốc lên mờ cả kính mắt bà. Đôi tay gầy guộc, những vết chai sần như bản đồ cuộc đời bà in hằn trên da thịt: “Đường xa, học cho nghiêm túc nghe con.”
Tôi gật đầu, cắn một miếng khoai bở ngọt lịm. Những ngón tay bà vuốt qua tóc tôi nhanh như chạm trộm, rồi bà quay đi dọn dẹp mấy thúng rau muống vừa hái từ vườn. Bà không bao giờ nói nhiều lời hoa mỹ. Bài học đầu tiên bà dạy tôi là nhìn vào đôi tay ấy, những ngón tay nứt nẻ mùa đông vẫn xới đất, những móng tay gãy nham nhở vì nhổ cỏ, chúng kể câu chuyện về sự kiên cường bằng thứ ngôn ngữ im lặng.
Chuyến xe buýt màu xanh cũ kỹ rú còi inh ỏi trước cổng. Tôi vội vã ôm cặp chạy ù ra, đôi dép lấm đất bắn lên ống quần. Tiếng máy nổ rền rĩ, mùi dầu diesel nồng nặc hòa với hơi nước từ ly trà của bác tài xế làm tôi choáng váng. Bốn mươi cây số từ quê đến trường THPT Thạch Bàn ở Long Biên là một hành trình dài ngái ngủ. Chiếc xe lắc lư trên con đường làng gập ghềnh như con thuyền giữa sóng, đẩy tôi va vào khung cửa sổ lạnh ngắt. Tôi nhìn ra ngoài, những thửa ruộng bậc thang mướt xanh trải dài đến tận chân trời, điểm xuyết bóng áo nâu của mấy bác nông dân cúi mình gặt lúa. Có những đứa trẻ chăn trâu nghịch đất bên vệ đường, nước da đen nhẻm dưới nắng. Mỗi lần thấy họ, lòng tôi lại thắt lại. Giá như không có vòng tay bà Lan, có lẽ tôi cũng đang thất thểu giữa đồng như thế, chứ không phải ngồi đây với bộ đồng phục trắng phau.
“Vé cháu đây!” Tôi đưa cho bác soát vé mảnh giấy nhàu nát đã đóng dấu đỏ tháng. Bác gật đầu, ánh mắt đượm vẻ thương cảm: “Chăm chỉ thế nhỉ? Ngày nào cũng thấy cô bé này đi sớm nhất.” Tiếng thì thầm của hai bác hàng xóm phía sau cứ văng vẳng bên tai: “Con nhà nghèo hiếu học đấy. Mẹ nuôi già lắm rồi…” Tôi cắn môi, quay mặt vào tường xe lạnh ngắt. Chẳng phải mẹ ruột, câu nói ấy như mũi dao cứa nhẹ nhưng sâu.
Xe bon bon qua cầu Long Biên, dòng sông Hồng đỏ quạch cuồn cuộn phù sa dưới kia. Khói bụi thành phố bắt đầu xâm chiếm khoang xe, cái mùi ngột ngạt của xăng và bê tông khiến tôi nhớ da diết hương lúa non ở quê. Bà Lan vẫn thường bảo: “Cái gì cũng có giá của nó con ạ. Muốn đổi đời thì phải chấp nhận gian nan.” Mỗi nhát xóc trên đường là một lời nhắc, về gánh rau bà gồng gánh đi chợ từ tờ mờ sáng, về những đêm bà thức trắng vá lại chiếc cặp sách cũ cho tôi.
Chiều về, bóng đã xế tà, tôi bước xuống xe với đôi chân mỏi nhừ. Bà Sáu, hàng xóm thân thiết nhất, đang ngồi chễm chệ trước hiên nhà tôi, tay phe phẩy chiếc mo cau: “Hoa về rồi hả con?” Giọng bà sang sảng như chuông đồng: “Mang sang cho hai bà cháu nải chuối này, nhà tôi vừa hái lúc trưa.”
Bà Lan bước ra, tay còn dính bùn đất: “Lại làm phiền bà rồi.”
“Phiền gớm!” Bà Sáu vỗ đùi đánh đét: “Bà Lan này, tôi ghen tị với bà đấy! Có đứa con gái ngoan như Hoa, học giỏi nhất làng. Ngày nào cũng lặn lội lên tận Hà Nội học. Vất vả thế mà không kêu ca nửa lời!”
Tôi cúi mặt xuống, những ngón tay bấu vào mép cặp. Lời khen ấy như hòn đá ném xuống lòng ao, gợn lên bao nỗi hổ thẹn. Tôi biết mình chưa đủ giỏi, chưa đủ báo đáp những giọt mồ hôi bà rơi xuống luống rau.
Bà Lan chỉ mỉm cười, đôi mắt nheo lại thành vệt sáng dưới ánh hoàng hôn: “Chỉ mong nó lớn khôn, đủ sức lo cho bản thân là tôi mãn nguyện rồi.” Cái cách bà nói nhẹ như gió thoảng, nhưng tôi nghe được cả biển cả yêu thương trong đó.
Sáu năm trời trên chuyến xe buýt ấy, từ cô bé ngồi thu lu trong góc ghế đến thiếu nữ mười lăm tuổi tự tin đứng trước bảng đen giải phương trình. Mỗi vết nứt trên ghế xe, mỗi vết xước trên kính cửa sổ đều trở thành người bạn đường. Có những ngày đông giá rét, tôi co ro trong chiếc áo khoác mỏng tang, hơi thở phả ra thành sương trắng đục. Có những trưa hè nóng như đổ lửa, mồ hôi ướt đẫm lưng áo trắng. Nhưng không gì bằng cái ngày tôi mang về tấm giấy khen học sinh giỏi toàn diện.
“Con của bà!” Bà Lan ôm chặt tôi, đôi tay chai sạn run run lật từng trang giấy. Mùi mồ hôi quen thuộc của bà, mùi đất, mùi nắng, mùi cỏ dại, bỗng thơm lạ lùng. Bà Sáu hò hét từ sân: “Cho xem nào! Tôi bảo mà, bà Lan có phúc lớn!”
Những năm tháng ấy, tôi học được rằng nghị lực không phải là thứ gì cao siêu. Nó nằm trong nắm cơm nguội bà gói cho tôi mang đi buổi sáng. Nằm trong ánh mắt bà Sáu lấp lánh niềm tin khi nhìn tôi bước lên xe. Nằm trong tiếng thở dài của bà Lan mỗi tối khi ngồi khâu lại đôi dép tuột quai cho tôi. Và nằm trong chính bước chân tôi, ngày ngày bước lên chuyến xe lắc lư ấy, hướng về phía tương lai như lời hứa thầm lặng với bà: “Con sẽ không để những giọt mồ hôi của bà rơi xuống đất hoài.”
Mùa đông năm 2012, gió bấc lùa qua khe cửa căn nhà nhỏ ở quê, mang theo hơi lạnh cắt da. Bà Lan vẫn dậy từ tờ mờ sáng, đôi tay gầy nhóm bếp lửa. Tôi nằm cuộn mình trong chăn, nghe tiếng bà ho khan, âm thanh khô khốc như vỏ cây mùa hanh. Đã mấy tuần nay, bà kêu đau vai, nhưng cứ gạt đi: “Tuổi già như lá vàng thôi con, rụng là chuyện thường.”
Rồi một buổi chiều, khi tôi đang cặm cụi làm bài toán lớp 7, tiếng chuông điện thoại vang lên gấp gáp. Chị Hương bên kia đầu dây giọng đứt quãng: “Hoa ơi… Bà ngã quỵ! Tay trái bất động rồi… Đang đưa bà vào viện!”
Bệnh viện Đa khoa Hưng Yên, mùi thuốc sát trùng xộc thẳng vào mũi khi tôi chạy qua dãy hành lang dài. Tiếng rên rỉ từ các phòng bệnh vọng ra, lẫn với tiếng lách cách bánh xe cáng đẩy. Bà nằm co ro trên giường sắt, chiếc chăn bông cũ sờn vải không đủ che hết thân hình gầy nhẳng. Cánh tay trái bà buông thõng như cành cây gãy.
“Bà… Bà đau lắm không?” Tôi nắm chặt bàn tay phải còn ấm của bà, những vết chai sần cọ vào da tôi.
Bà cố nhoẻn miệng cười, nếp nhăn khẽ sâu hơn: “Dại quá! Chỉ là dây thần kinh bị chèn thôi… Bà già rồi, con gái mới là nỗi lo.” Giọng bà khàn đục, nhưng vẫn cố giữ nét đùa cợt quen thuộc: “Mai mốt con thành cô giáo, bà được nhờ là sướng rồi.”
Tôi biết bà nói dối. Ánh mắt bà thoáng chút hoảng hốt khi thử cử động ngón tay bất lực.
Từ hôm ấy, cơn ác mộng đeo đuổi tôi. Trong giấc mơ, bà ngồi trên chiếc xe buýt cũ kỹ chở tôi đi học mỗi ngày. Cửa sổ vỡ toang, gió rít lạnh buốt cuốn theo mùi khói bụi đường. Bà thì thào: “Bà phải đi rồi…” Rồi tan biến. Tôi giật mình tỉnh giấc, hai bàn tay túm chặt chăn ướt đẫm mồ hôi lạnh.
Tôi bật dậy, chạy vụt sang giường bà như con thú nhỏ sợ hãi. Vùi mặt vào vai bà, tôi hít hà mùi bột sữa thoang thoảng vẫn đọng trên áo bà, ký ức ngọt ngào từ những ngày bà trông trẻ thuê. Bà khẽ cười, vòng tay ôm lấy tôi: “Lớn bằng con bồ câu rồi mà còn nhát thế? Mai mốt lấy chồng ai dám ngủ cùng?”
“Con không lấy chồng! Con ngủ với bà suốt đời!” Tôi nức nở.
5 giờ sáng hôm sau, tôi lục đục dưới bếp. Ánh lửa bập bùng nhuộm hồng khuôn mặt non nớt. Tôi bỏ gạo vào nồi, thêm nắm rau tần ô hái vội ngoài vườn chị Hương. Mùi cháo sánh quyện với hương rau tươi mát lan tỏa trong căn bếp nhỏ.
“Phải nấu ngon để bà mau khỏe.” Tôi tự nhủ, mắt dán vào ngọn lửa.
Bà Sáu bước vào, tay xách nồi canh cua nóng hổi: “Cháu Hoa ngoan quá! Bà mang canh sang cho bà cháu mình.” Bà đặt nồi xuống bàn, mắt đỏ hoe: “Ngày trước bà Lan nhịn đói cho cháu ăn, giờ cháu báo hiếu… Trời có mắt đó!”
Trong phòng bệnh ngột ngạt, bà Sáu vừa múc cháo cho bà Lan vừa râm ran kể chuyện: “Hôm qua thằng Cu nhà tui bắt được con cá trê to lắm, nó bảo để dành phần bà…” Tôi ngồi bên, lòng quặn thắt khi thấy bà Lan cố nuốt từng thìa cháo. Đôi tay run rẩy.
Tôi thì thào với bà Sáu: “Cháu muốn làm người mẫu, kiếm nhiều tiền mua thuốc tốt cho bà…”
Bà Lan bỗng đặt bát cháo xuống, mắt nghiêm khắc: “Con gái bà mà dại thế à? Học cho giỏi, tự nuôi mình được đã là quý hơn vàng!” Bà chép miệng: “Ngày xưa bà nhặt ve chai đêm cũng vì muốn con ăn no, không phải để con làm kiếp vất vưởng trên sân khấu.”
Ba tháng sau, bà tập đi lại trong sân nhà. Cánh tay trái cử động chậm chạp như cối xay thiếu dầu. Chị Hương sang nhiều hơn, lúc mang gói thuốc Bắc, khi đỡ bà tập vật lý trị liệu. Em Thảo từ Hà Nam về, ríu rít kể chuyện chồng mới cưới: “Anh ấy bảo nuôi bà với Hoa không tốn cơm đâu!”
Một chiều cuối đông, bà Sáu mang sang mớ cá rô phi tươi rói: “Của ông Tư mới câu được!” Bà nhìn tôi âu yếm: “Cháu học giỏi nhé, để bà Lan được nhờ!”
Tôi gật đầu, nắm tay bà Lan thật chặt. Gió vẫn rít qua vòm cây trụi lá, nhưng trong lòng tôi đã ấm lại. Bài học lớn nhất không nằm trong sách giáo khoa: Tình thương là sợi dây vô hình níu người ta lại bên nhau, dù giông bão có thổi bay mái nhà.
Một năm sau, ánh đèn studio chói lóa chiếu xuống khiến tôi nheo mắt. Mùi hoa tươi, hoa huệ trắng cài trên ghế bà, hoa hồng đỏ rực trên bàn dẫn chuyện, thoang thoảng hòa với tiếng nhạc nền dịu dàng. Chương trình truyền hình “Điều Ước Diệu Kỳ” trên kênh VTV3. Bốn chữ ấy hiện lên lung linh trên màn hình, như giấc mơ thuở nhỏ tôi từng kể với Lan Phương trong phòng tập múa. Chị Mai Phương bước ra, chiếc váy tím nhẹ nhàng ôm lấy dáng người thanh thoát. Đôi mắt chị ấm áp nhưng đỏ hoe ngay khi bắt tay bà tôi.
“Cô Lan ơi.” Giọng chị run nhẹ: “Cô có nhớ ngày đầu nhận cháu Hoa không?”
Bà tôi siết chặt tay tôi, những vết chai sần trên lòng bàn tay khô ráp mà quen thuộc: “Nhớ chứ cháu. Tháng 1/2004, trời rét cắt da… Con bé mới 5 tháng tuổi, khóc ngằn ngặt trong chiếc khăn mỏng. Mẹ nó gửi tôi một triệu mỗi tháng, rồi biến mất…”
Tôi nhìn bà, mái tóc bạc phơ dưới ánh đèn, giọng nói đều đều như kể chuyện đồng áng. Ký ức ùa về: mùi sữa ông Thọ bà pha cho tôi uống thay sữa bột, tiếng ve chai lọc cọc trong đêm Hà Nội. Chị Mai Phương quay sang khán giả, giọng nghẹn lại: “Bà Lan đã từ chối gửi cháu vào trại mồ côi dù chính con gái bà khuyên như vậy. Bà nói…”
“Tôi bảo: ‘Đứa trẻ này là quà trời cho tôi đây!’” Bà cười khẽ, nếp nhăn quanh mắt hằn sâu. “Nó khóc, tôi ôm. Nó đói, tôi nhịn cơm mua sữa. Giấy khai sinh của nó…” Bà dừng lại, ngón tay gầy guộc vuốt ve tờ giấy trong suốt đặt trên bàn: “…Tôi đổi bằng cả tỷ đồng, có lẽ cũng không mua nổi.”
Một giọt nước mắt lăn dài trên má chị Mai Phương. Chị không lau, để nó rơi tự nhiên trước ống kính. “Cháu biết không?” Chị quay sang tôi, tay nắm lấy bàn tay tôi đang lạnh ngắt: “Khi đọc bài báo, và nhớ về nguồn gốc mình, cháu đã nghĩ gì?”
Tôi hít một hơi sâu. Mùi phấn trang điểm thoảng qua mũi, gợi nhớ mùi bụi trên đường tôi đi xe buýt 40km tới trường. “Cháu khóc suốt một tuần. Cháu hỏi bà: ‘Sao mẹ con bỏ con?’” Tôi nhìn thẳng vào ánh đèn, nơi những khuôn mặt mờ ảo của khán giả đang chăm chú: “Rồi cô Ngọc đưa cháu vào đội múa. Ở đó, cháu gặp Lan Phương, cô bạn cùng khổ. Chúng cháu nhảy, cười, và cháu hiểu… Tình người quý hơn vàng bạc. Giờ cháu muốn thành cô giáo Toán để giúp trẻ mồ côi như mình.”
Chị Mai Phương mỉm cười qua làn nước mắt. Một tấm bảng lớn được đẩy ra: “HỌC BỔNG NGUYỄN THỊ HOA, TƯƠNG LAI GIÁO VIÊN.” Tiếng vỗ tay rền vang như mưa rào. Ánh đèn flash chớp liên hồi, làm lóa cả những giọt nước mắt đang lăn trên má tôi. Chị ôm tôi thật chặt, thì thầm: “Chị tin em sẽ làm được!” Rồi quay ra nói với cả trường quay, giọng vang xúc động: “Câu chuyện của bà và cháu, là minh chứng đẹp nhất cho tình người!”
Bà tôi vẫn ngồi đó. Đôi mắt bà sáng lên niềm tự hào lặng lẽ, nhưng bàn tay run run nắm lấy vai tôi. Tôi nghiêng đầu tựa vào bà, hơi ấm quen thuộc ấy khiến tôi nhớ những đêm giông bão bà ôm tôi ngủ, kể chuyện cổ tích về nàng tiên hiền hậu. “Con cảm ơn bà…” Tôi thì thầm trước micro: “Con hứa sẽ chăm sóc bà suốt đời. Dù sau này có đi đâu, con cũng đưa bà theo.”
Buổi ghi hình kết thúc trong tiếng nhạc du dương. Bà Sáu, hàng xóm thân thiết chạy lên, ôm chầm lấy chúng tôi khi đạo diễn hô “Cắt”: “Chương trình xúc động quá, bà Lan sướng rồi! Có đứa cháu hiếu thảo thế này!” Bà cười giòn tan, mắt đỏ hoe.
Trên đường về, bà tôi lặng im nhìn ra cửa sổ xe. Bóng tối Hưng Yên thấp thoáng đèn điện. Tôi nắm tay bà, bàn tay gầy guộc đã nuôi tôi suốt 15 năm. Mẹ ruột tôi vẫn là bóng ma vô hình kể từ năm 2005, nhưng lòng tôi giờ ấm áp lạ thường. “Không có bà.” Tôi nghĩ. “Có lẽ tôi đã thành đứa trẻ vô danh trong trại mồ côi nào đó.”
Chương trình ấy không chỉ cho tôi học bổng. Nó cho tôi dũng khí để bước tiếp trên con đường 40km tới trường mỗi ngày. Và trên hết, nó dạy tôi rằng hy sinh thầm lặng của một người đàn bà nghèo… Có thể thắp lửa cho cả nghìn trái tim.
***
=>Đọc tiểu thuyết "Trước Lúc Bình Minh" của Rewrite
Bình luận
Chưa có bình luận