Sáng tinh mơ hôm sau, Lê Trung và Lý Thuận âm thầm rời khỏi quán trọ.
Lúc Khắc Duy đánh thức tôi dậy, bàn rượu đêm qua đã biến thành chiếc giường trong phòng nghỉ. Ngồi bần thần giữa đống chăn gối, tôi gãi đầu gãi tai, phải mất hồi lâu mới tiêu hóa xong mớ thông tin vừa nhận được: “Quân triều đình... anh nói cái gì cơ? Hai gã kia á?”
“Ừm, gọi chung là thế. Tuy không trực tiếp thừa nhận, nhưng ta đoán họ thuộc cánh quân tương đương ám vệ (1), làm nhiệm vụ trinh sát.” Khắc Duy ngả lưng xuống giường, mặt mũi đỏ gay vì men rượu chưa tan hết. Sau nửa phút lục tìm trong ngực áo, hắn lấy ra mảnh giấy nhìn nhàu nhĩ như giấy lộn, vuốt tạm mấy cái cho phẳng rồi nhét vào tay tôi:
“Bút tích của Lê Trung để lại, đọc qua đi Dương.”
Nhận mảnh giấy từ tay Duy, tôi tò mò giơ lên xem thử, thấy nội dung bên trong vỏn vẹn một dòng ngoáy vội, thoạt nhìn không rõ là loại văn tự nào. Xoay ngang mảnh giấy hai lần, lại xoay dọc thêm một lần, tôi lắc đầu chịu chết: “Thôi, anh đọc hộ chứ tôi có biết chữ thời này đâu. Gã viết gì trong đó vậy?”
“Là lời nhắn hẹn.” Duy che miệng ngáp, chậm rãi nói. “Gã bảo chúng ta, canh hai đến bờ sông Tham, tìm gặp Tứ sương quân Phó chỉ huy sứ (2).”
“Phó chỉ huy sứ?” Tôi ngờ ngợ nhẩm lại, nhận ra cái gã tên Trung họ Lê này không những kiệm lời mà còn “kiệm” luôn cả chữ. Thông điệp của gã rất ngắn gọn, thời gian địa điểm rõ ràng. Ngặt nỗi, điều quan trọng nhất cần phải nêu ở đây là “lý do” thì chẳng thấy gã đề cập tới.
Liếc nhìn hai thanh kiếm treo ở cuối giường, Khắc Duy gãi cằm, làm điệu bộ suy tư. Hắn kể: “Chiều tối qua, trước lúc em đến, Lê Trung có mấy lần bâng quơ đề xuất với ta việc gia nhập quân ngũ. Gã khoe mình quen biết rộng, là chỗ thân tình đồng học với nhiều võ tướng tòng tam, tứ phẩm. Bọn họ đều trọng người tài. Nếu ta muốn xung quân gã sẽ cơ cấu giúp một phần, để họ chú ý mà ưu ái ta hơn. Ta mới nghe biết vậy chứ chưa trả lời gã, định sáng nay hỏi lại nhưng lúc tỉnh dậy thì không thấy người đâu nữa.”
Tôi ồ lên, rất nhanh đã xâu chuỗi được những phỏng đoán trước đấy vào với nhau: “Hiểu rồi, thế khả năng cao vị chỉ huy sứ đây là “sếp” của hai gã. Và Lê Trung vì muốn trả ơn cứu mạng của anh nên vẽ đường, tạo công ăn việc làm giúp anh đổi đời à?”
“Hẳn là vậy. Gã cứ liên tục nhấn mạnh về chuyện tiền thưởng. Chắc gã nghĩ ta đây là hạng đánh thuê, đang thiếu tiền cần kiếm chác cũng nên.”
Nghe giọng điệu Khắc Duy có phần dè bỉu khi nhắc chữ “tiền”, tôi lập tức nhớ đến cái nháy mắt ẩn ý của gã Lý Thuận cùng khoản tiền mười đồng đã cứu cánh mình hôm qua. Con quỷ xấu tính trong người phút chốc trỗi dậy chiếm quyền kiểm soát lý trí, tôi đặt tay lên vai hắn, nở nụ cười nửa miệng mà như chị Thuyên từng nhận xét trước đây là trông nó hết sức... khốn nạn:
“Khác chỗ nào đâu, anh không có tiền thật mà tự ái nỗi gì? Hai chúng ta không bị họ xếp chung mâm với đám ăn vạ hay bày trò dàn cảnh để xin đểu là may mắn rồi.”
Dù tự nhủ phải cố quên đi nhưng tôi vẫn chưa thôi ấm ức vụ hắn đưa mình túi tiền giả, làm mụ Tám bán gạo chửi cho vuốt mặt không kịp ngoài chợ. Suốt sáu năm lăn lộn trong ngành báo chí, tôi đã kinh qua vài kiểu sỉ vả của bàn dân thiên hạ. Nhẹ thì họ nói bóng gió, nặng thì chửi thẳng hoặc đánh luôn. Gặp nhiều thành quen, những lời xúc phạm giờ chẳng mảy may khiến tôi bận lòng.
Có điều, cái nơi khỉ ho cò gáy này vốn không phải thế kỷ 21, mụ Tám kia cũng không phải “giang cư mận” thông thường. Văn chương, sách vở ca ngợi sự thâm thúy của người xưa nhiều bao nhiêu thì mụ Tám như thổi hồn cho chúng nó sống hết cả lên. Mụ rủa tôi lắm câu tục thật, nhưng có những câu mà tới tận khi đêm xuống, ngồi một mình yên tĩnh tôi mới dần ngẫm ra. Mà ngẫm ra muộn vậy sao cãi lại mụ nữa? Rốt cuộc, tôi quyết định quy hết mọi tội lỗi lên đầu Khắc Duy.
“Cô vừa nói gì? Mau nhắc lại ta nghe thử.”
Con quỷ xấu tính còn muốn tôi xỉa xói thêm đôi câu nữa, nhưng chợt thấy ánh mắt hắn nhìn mình lạnh lẽo tựa mũi dao găm. Bao lời lẽ chuẩn bị ra đến đầu lưỡi bỗng dưng “quay xe”, trôi tuột xuống cổ họng. Tiếng chuông cảnh báo nguy hiểm trong đầu réo inh ỏi như sắp cháy nhà, tôi cười gượng, rón rén định rút tay lại nhưng Khắc Duy đã nhanh hơn một bước. Hắn chộp lấy cổ tay tôi, dùng sức kéo tôi ngã về phía hắn. Bất ngờ, một mùi hương trầm ấm, thoang thoảng giống mùi gỗ đàn hương bao trùm quanh tôi khi đầu vô tình áp sát lồng ngực hắn, làm tôi khựng lại trong giây lát.
Nhưng trời đất ơi, từ từ đã nào!
Trước hết, tôi xin cam đoan đây hoàn toàn không phải một tình huống lãng mạn như trên phim ảnh. Tên Khắc Duy này… hắn đang tính siết cổ tôi thì phải?
“Bỏ… bỏ ra…” Cảm nhận lượng không khí hít vào càng lúc càng ít do đường hô hấp bị cản trở, tôi há hốc miệng, gắng sức gỡ hai cánh tay cứng ngắc kẹp qua cổ mình trong vô vọng. So với một gã thanh niên sức dài vai rộng như hắn, những nỗ lực phản kháng của tôi chỉ tương đương hạt muối bỏ biển.
“Hình như ta tử tế với cô quá nên cô được đằng chân, lân đằng đầu đấy phỏng?” Duy cười gằn, lực siết ở tay tăng lên. Dáng vẻ ôn hoà, nhã nhặn qua giờ của hắn đã biến mất tăm, trả về đúng nguyên trạng là thằng cha cau có khó ở hôm đầu tôi gặp. “Nếu chán sống rồi thì để ta hóa kiếp giúp cô nhé?”
Vừa nói, hắn vừa móc ở đâu ra một con dao lưỡi nhỏ nhìn sắc lẻm, kề sát ngay dưới cằm tôi: “Nào, giỏi thì nói tiếp đi, Dương. Cô bảo ai không có tiền? Ai giống ăn vạ, hả?”
Hơi lạnh từ kim loại lẫn theo sát ý đột ngột chạm vào da thịt, tôi vội rụt đầu lại theo phản xạ, miệng ấp úng mãi không thành tiếng. Đúng là không có cái ngu nào giống cái ngu nào. Lẽ ra, tôi không nên vì một phút xấu tính mà đem chuyện tiền bạc ra xỏ xiên hắn mới phải.
Tốt xấu gì, Khắc Duy cũng là đàn ông. Mà đã là đàn ông, ai nấy đều quan trọng thể diện cả. Cổ nhân có câu: “Sĩ khả sát bất khả nhục”, hiểu nôm na nghĩa là kẻ sĩ thà chết chứ không chịu nhục. Thật ra tôi đây chẳng biết câu đấy chính xác là đang muốn nói đến chữ “sĩ” nào. Nhưng dù là “sĩ” trong sĩ phu, sĩ khí hay… sĩ diện thì đều có phần dính dáng tới Khắc Duy. Tuy chưa nghe hắn ngâm thơ làm văn bao giờ, song chỉ riêng việc đọc hiểu và nắm rõ “Binh thư yếu lược” là đã đủ chứng minh trình độ tên dở hơi này khấm khá hơn khối anh Nho sĩ trường làng. Xét về tư cách binh sĩ thì khỏi cần bàn cãi nhiều, hắn thừa tiêu chuẩn luôn. Đường đường là đệ tử thân cận bên cạnh Hưng Đạo đại vương, cái tài khua đao múa kiếm của hắn có chịu thua kém ai đâu?
Mặc dù không rõ Duy từng sống vào năm thứ bao nhiêu của kỷ nhà Trần, nhưng tính sơ sơ “niên đại” thì chắc cũng cách thời của tôi cỡ dăm, bảy thế kỷ.
Một người mang tư tưởng cũ, xuất thân từ thời đại cũ - nơi mà danh dự có thể đánh đổi bằng máu, thử hỏi làm sao chấp nhận nổi việc bị một đứa con gái mỉa mai vấn đề nhạy cảm như thế? Tóm lại, nếu lát nữa hắn có nổi điên “xực” tôi tại chỗ thì âu cũng là quả báo tự tôi gây ra, tại tôi quá đáng trước nên không thể trách hắn được…
Nghĩ thông suốt rồi, tôi ngậm ngùi đưa tay dụi đôi mắt mờ tịt do não thiếu oxy thay vì tiếp tục giãy giụa. “Thức thời vụ giả vi tuấn kiệt”, trong tình thế bất lợi hiện tại, chủ động xin lỗi và thành khẩn nhận lỗi là một nước đi khôn ngoan để bảo toàn tính mạng. Cơ mà vừa chuẩn bị mở miệng thì Khắc Duy đột nhiên buông tay, thẳng chân đạp tôi lăn xuống cuối giường.
“Tạm tha cho cô lần này đấy.”
Hắn nguýt tôi, đoạn rảo bước tới gần cửa chính, áp tai vào tấm phên nghe ngóng gì đó. Nhìn vẻ mặt nghiêm trọng của hắn, tôi nghi có chuyện chẳng lành, liền cắn răng ôm cái lưng đang hơi nhoi nhói bò dậy, nén tiếng kêu đau cất giọng hỏi khẽ:
“Sao vậy? Ngoài đó có vấn đề gì hả?”
Duy gật đầu, đặt ngón trỏ lên môi làm dấu im lặng. Hắn dùng mũi dao khéo léo luồn qua kẽ hở giữa những dải nứa, cạy được một khe nhỏ vừa đủ trên tấm phên cửa để quan sát bên ngoài. Tôi căng thẳng dõi theo Duy, lòng dạ bồn chồn khi thấy sắc mặt hắn liên tục biến đổi, từ kinh ngạc tột độ chuyển sang hứng thú một cách kỳ quái. Lát sau, hắn quay qua phía tôi, mắt hấp háy đầy mờ ám:
“Trò vui tới rồi, Dương!”
Hắn đứng dịch sang bên cạnh, gõ nhẹ chuôi dao lên cửa ý bảo tôi tự đến xem. Sẵn lúc đang hiếu kỳ, tôi bèn kiễng chân ghé mắt vào khe hở. Vừa trông thấy thứ gọi là “trò vui” của hắn, hai chân tôi lập tức mềm nhũn, thiếu chút nữa khuỵu hẳn xuống đất. Tôi tái mặt quay đầu nhìn Duy, bàng hoàng tới độ không thốt nên lời.
Đằng sau cánh cửa, lớp lớp khói đen lẫn cùng tro giấy đã bao trùm toàn bộ dãy hành lang. Không khác lắm so với ngày hôm qua, thứ khói ma mị ấy tụ thành nhiều cụm lớn, nối đuôi nhau trôi lững thững về một hướng như những thực thể có ý thức. Biết rõ nguồn gốc của chúng từ lũ âm binh mà ra nên tôi sợ chết khiếp, ngay đến thở cũng không dám thở mạnh.
“Đất có Thổ công, sông có Hà Bá. Mấy vị “chủ đất” ngự ở chốn đây làm ăn kiểu này là chết gia chủ rồi.” Khắc Duy kéo tôi lùi xa khỏi cánh cửa, tiện thể buông lời cảm thán. “Tắc trách, tắc trách quá!”
“Âm… âm binh… chúng nó… chúng nó vào trong nhà rồi Duy ơi, phải làm sao bây giờ?” Tôi nói mà câu chữ ríu hết cả lại. Vừa hay thấy thanh kiếm của mình treo gần bên cạnh, tôi liền cuống quýt vơ lấy rồi ôm chặt trước ngực như bùa hộ mệnh. Khắc Duy nhếch môi cười khẩy, vươn tay vỗ cái “bộp” lên đầu tôi.
“Bình tĩnh đi Dương! Có ta ở đây, thách cả núi vàng mã chúng cũng không dám bước chân qua cửa. Cô sợ gì chứ?”
Mặt tôi méo xệch, nghe hắn trấn an xong chỉ biết câm nín. Tên dở hơi Khắc Duy đúng là lạc quan hết chỗ nói. Tôi thì chịu, để mà bảo bình tĩnh được trong tình huống này thì thú thật là tôi làm không được đâu!
Như hắn mới nhắc qua lúc nãy, “đất có Thổ công, sông có Hà Bá”. Cụ thể, thành ngữ đó ngoài ý nghĩa thường gặp là “nơi nào cũng có người trì nhậm, phải tôn trọng luật lệ chung và không được xâm phạm, lấn lướt quyền làm chủ” thì còn ngầm ám chỉ một quan niệm dân gian phổ biến khác.
Trong văn hoá tâm linh người Việt, “Thổ công” hay “Thổ địa” (có nơi gọi “Quan thần linh”) được biết đến là những vị thần chuyên cai quản đất đai, bảo hộ con người khỏi tà ma quỷ quái, đồng thời đem lại sự bình yên. Tương tự, “Hà Bá” là vị thần cai quản sông nước, sở hữu quyền lực và gánh vác trách nhiệm ngang ngửa với “Thổ công”. Phạm vi quản lý của Thổ công, Hà Bá thường trong một khoảng giới hạn, ví dụ như một vùng đất có diện tích nhất định, một hộ gia đình, một con sông, một khúc sông…
Ở từng địa phương, tùy thuộc vào những yếu tố liên quan đến khí hậu, địa hình, phong tục tập quán mà nguồn gốc, truyền thuyết về mấy vị này phái sinh nhiều dị bản khác nhau. Với vốn kiến thức tâm linh bé tẹo cóp nhặt từ chính cuộc đời ngắn ngủi nhưng đầy “sóng gió” của mình, tôi đã trích ra được điểm chung giữa hàng trăm định nghĩa, rằng những vị thần như Thổ công, Hà Bá là đại diện cho sự bảo hộ, duy trì trật tự và kiểm soát mọi biến động xảy ra trong phạm vi quyền hạn ở cõi âm. Đặc biệt là Thổ công, vị Phúc thần được nhà nhà thờ cúng với mong muốn gia đạo êm ấm, xua đuổi tà ma.
Ngày còn nhỏ, dì Diệu đã không ít lần nhấn mạnh với tôi, việc chăm chút bát hương thờ tự Quan thần linh, tức thần Thổ công là rất quan trọng. Bởi lẽ, nhờ có các ngài quanh năm bỏ công trấn giữ, mảnh đất nơi gia chủ cư trú mới không bị cô hồn dã quỷ quấy quả, vong linh là người trong gia đình khi về thụ lộc cũng được yên ổn dưới sự bảo trợ của Thổ công.
Nói cách khác, nếu quán trọ này có thần Thổ công giáng ngự thì đám âm binh ngoại đạo kia sẽ không thể ngang nhiên tụ tập giữa ban ngày ban mặt như thế.
“Trừ khi…”
Tôi lạnh người với những giả thiết kinh khủng vừa lóe lên trong đầu. Kỳ thực, trên đời tồn tại rất nhiều nguyên nhân khiến lũ ma quỷ có thể tùy ý xuất hiện ở một khu vực vốn dĩ phải được thần linh che chở. Trường hợp hay thấy nhất là “khói tàn hương lụi” - do người dân cúng kiếng không đàng hoàng, thành thử ra các thần hoặc phật ý, hoặc vì pháp lực đã suy yếu nên bỏ đi. Hậu quả là khu đất ấy sau trở thành đất vô chủ dưới cõi âm, tạo điều kiện cho oan hồn vất vưởng lộng hành.
Trường hợp thứ hai đáng sợ hơn, và tôi không hề mong nó xảy ra. Ấy là việc thần linh bị một thế lực tà đạo khác mạnh hơn áp chế. Đó có thể là loài ngạ quỷ mang sức mạnh hắc ám, hoặc là những thầy pháp, pháp sư biết dùng bùa chú phép đen, điều khiển được âm binh. Một khi đã rắp tâm sử dụng năng lực tâm linh cho mục đích xấu, bọn họ sẵn sàng triển khai các nghi thức cấm hòng trấn áp, thậm chí là bức hại thần linh để thực hiện ý đồ đen tối của mình.
Nhìn chung, dù có không may rơi vào trường hợp nào thì đều khó cứu như nhau. Mà xét theo tình hình thực tế, tôi đồ rằng mọi chuyện đang diễn biến theo chiều hướng tệ nhất rồi.
“Khắc Duy…” Tôi ngập ngừng gọi hắn, nhỏ giọng đề nghị. “... hay chúng ta rời khỏi đây luôn được không? Tôi thấy cái quán trọ này cứ thế quái nào ấy. Đằng nào hai gã kia cũng đi trước rồi, mình nấn ná thêm chỉ tổ tốn thời gian…”
Nói ra nghe có vẻ hèn, nhưng nửa cuộc đời sống trong tình trạng âm dương lẫn lộn, hết trông thấy ma lại mơ thấy quỷ, tôi đã nghe đủ nhiều về đám âm binh để biết rõ sự nguy hiểm của chúng. Nếu ở hiện đại, tôi chỉ sợ chúng cỡ một phần vì còn có niềm tin vào thế giới duy vật. Thì ở tại nơi hư thực bất phân này, khi những điều phi lý nhất cũng đã hiển hiện trước mắt, nỗi sợ ấy phải nhân lên gấp mười, hai mươi lần. Không phải vì tôi nhát gan, nhưng bởi chẳng có chuẩn mực nào phù hợp để đánh giá mức độ rủi ro cũng như sức ảnh hưởng từ các thế lực tâm linh đến mình nên tôi rất ngại dây vào.
Khổ nỗi, tên dở hơi Khắc Duy lại chẳng nghĩ giống tôi. Hắn lắc đầu từ chối:
“Không, giờ ta mà đi thì lại dễ dàng cho chúng quá!”
“Chứ anh định làm gì nữa?” Tôi mím môi, toàn thân bất giác run rẩy trước nụ cười đang dần mất đi nhân tính của hắn.
Khẽ mân mê lưỡi dao trên tay, đáy mắt Duy ánh lên một tia nhìn độc địa. Hắn nghiêng đầu, lạnh lùng gằn từng chữ:
“Thay trời hành đạo!”
-
*Chú thích:
1, Ám vệ: chỉ những binh lính thân cận hoạt động bí mật bên cạnh nhà vua.
2, Tứ sương quân Phó chỉ huy sứ: Chức quan chỉ huy quân Tứ sương thuộc quân Cấm vệ, canh gác bên ngoài các vùng thành ở kinh đô Hoa Lư.
Bình luận
Chưa có bình luận