Con ma trong chiếc chum sành



Mặc cho tôi thuyết phục đến độ sắp gãy cả lưỡi, Duy vẫn khăng khăng giữ vững “quan điểm và đường lối” của mình.

Là một gã đàn ông hội tụ đầy đủ hai nét tính cách khiến tôi ngán ngẩm là “gia trưởng” và “ngang ngược”, hắn gần như bỏ ngoài tai mọi lời lẽ tôi can ngăn. Kể cả khi tôi suýt bật khóc vì cái ý tưởng điên rồ hắn đề xuất, hắn vẫn một mực đòi nán lại để “diệt mầm tai họa, hộ quốc an dân”, còn mang cả giáo trình “Những nguyên lý cơ bản về cách thức diệt trừ âm binh” ra mà rao giảng, bắt tôi phải nghe bằng hết thì thôi.

Theo những gì Khắc Duy lải nhải, muốn hóa giải âm binh, trước hết phải lần ra tung tích kẻ bồi luyện, hoặc ít nhất là xác định được nơi thờ tự của chúng. Đấy là điều kiện tiên quyết và bắt buộc để xử lý triệt để vấn đề. Thực ra, đây chỉ là vài ý cơ bản mà tôi tóm tắt được giữa vô vàn những chuyện hắn nói. Bởi chờ hắn thuyết giảng xong thì tôi cũng đã thấm mệt và buồn ngủ lắm rồi.

“Thế chung quy là anh có cần tôi làm gì không?” Tôi đảo mắt nhìn ra cửa, hỏi cho có vậy chứ trong đầu tôi đã tìm đường để chuồn trước, ước gì hắn đừng rủ mình tham gia cùng.

“Cứ ở yên một chỗ, bao giờ ta bảo làm thì làm.” Khắc Duy đáp gọn, xua tôi lên giường rồi bắt đầu lôi trong tay nải ra một đống đồ lỉnh kỉnh nhìn như mới “bớ” về từ ban thờ nhà ai đấy: đĩa sành, bầu rượu, bát hương, chân hương... còn có xấp bùa màu vàng vẽ đầy những vết chu sa dài loằng ngoằng nhức mắt.

Sau khi kiểm đếm cẩn thận, Duy đem tất cả xếp lần lượt lên tấm vải đỏ trải trên nền đất, thoạt trông không khác gì lập đàn cúng tế. Tôi im lặng ngồi xem hắn bày biện từng món, được một lát thì bất chợt thấy hơi lấn cấn trong lòng.

Vốn dĩ, việc dụng binh đấu pháp trong giới thầy bà là điều rất bình thường, không hề hiếm gặp. Từ hồi mới mở phủ cho đến khi trở thành đồng thầy, ngoài việc bắc ghế hầu Thánh theo đúng lễ nghi, tôi còn thấy dì Diệu nhiều lần lập đàn đưa binh đi đánh thần Trùng (1), phá giải hàng loạt trận pháp lớn nhỏ có âm binh trấn giữ, giúp đỡ không biết bao nhiêu thân chủ thoát cảnh tai ương do ma quỷ gây ra.

Vì thể trạng của tôi ngày nhỏ rất sát âm, không phù hợp ở lâu tại những nơi nặng âm phần nên để tránh bị vong tà ốp (2) hoặc nhà Ngài bắt sát, trong các canh đàn khóa lễ tôi hay được dì giao chạy việc lặt vặt như sắm sửa đồ lễ, sắp mâm cúng chúng sinh, hóa vàng... Hiếm khi, dì cho tôi được dự trọn vẹn 36 vấn hầu (3). Thậm chí, vào những ngày dì đi hành pháp làm việc âm, tôi phải tự biết đường lánh mặt mỗi khi buổi lễ đến phần trục vong, gọi hồn. Thành thử ra, dù mang tiếng là “con nhà nòi” căn cao số nặng nhưng tôi cũng chỉ giỏi nhớ lý thuyết suông, chẳng học hỏi được tí mánh khóe “bắt ma” nào hữu ích từ dì.

Dẫu vậy, với thâm niên nhiều năm phụ việc nơi cửa điện, tôi vẫn đủ kinh nghiệm để nhận ra là thằng cha Khắc Duy kia đang... làm càn. 

Sở dĩ, tôi bảo hắn làm càn là tại cái đàn cúng tự phát của hắn quá mức sơ sài, nhìn ngược nhìn xuôi không ra thể thống gì. Phép giải âm binh là một phép cực khó, tới các thầy pháp cao tay muốn thực hiện còn phải lập canh đàn lễ lớn mà khấn vái cẩn thận. Nói không ngoa chứ nếu xui rủi động vào âm binh pháp lực mạnh thì mâm cao cỗ đầy còn chẳng ăn ai, huống gì...

Tôi chặc lưỡi nhìn lại đàn lễ của Khắc Duy. Không có ngựa xe đồ mã hay hương hoa bánh oản, tất cả những thứ Duy bày ra trước mặt tôi hiện tại là một mớ hỗn độn được tạo nên từ dăm ba món đồ thờ cúng sắp xếp vô tổ chức. “Lại còn đặt lệch cả bát hương, thật không thể chấp nhận nổi”, tôi thầm nghĩ. Hơi ngứa mắt với tác phong làm việc của hắn, tôi nhích người ra sát mé giường, lấy bao kiếm đẩy bát hương về đúng vị trí chính giữa, ngao ngán nói:

"Ê Duy ạ, nếu tôi là đám âm binh, biết anh lập đàn này để đánh đuổi tôi, tôi sẽ tự ái lắm ý."

Đang chăm chú rót rượu vào ba chén sứ nhỏ, Duy thấy tôi chỉnh lại bát hương thì lập tức gõ đầu tôi một cái, trừng mắt nạt: “Đừng có nghịch lung tung.”

“Ây, đau đấy nhé!” Tôi nhăn mặt, định gắt lên nhưng nhớ ra tình hình hiện tại không phù hợp để to tiếng nên đành hạ giọng. “Anh sắp lễ lôm côm quá, hành pháp kiểu này không khéo bị quật lại chứ đùa đâu.”

“Hừ, người trần như cô đúng là biết một mà không biết mười.” Khắc Duy bật cười khùng khục, đậy nắp bầu rượu rồi dằn mạnh xuống đất. “Ai bảo cô là ta hành pháp?”

“Chứ... chứ sao?”

Tôi nuốt khan, không khỏi giật mình vì chẳng rõ từ lúc nào, con ngươi bên mắt phải của Khắc Duy đã chuyển từ sắc xám sang màu đỏ thẫm như máu. Hắn tháo dải băng quấn trên trán buộc vào cổ tay trái, hất hàm ra lệnh:

“Đưa ta túi tiền hôm qua!”

Nghe giọng Duy có vẻ nghiêm túc hơn bình thường, tôi luống cuống bật dậy tìm chiếc túi gấm, run run đặt vào tay hắn. Duy dốc túi lấy ra hai đồng xu, thảy vào chiếc đĩa sành. Đoạn, hắn rũ áo ngồi xếp bằng trên đất, một tay nâng chiếc đĩa, tay còn lại kẹp hai đồng xu bằng đầu ngón trỏ và ngón giữa, cất giọng nói:

“Trước đây, ta là lính thân cận dưới quyền Quốc công, tiết chế Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Sau này, nhờ ơn đức trời biển của Ngài mà ta được về phụng mệnh công đồng Trần Triều, theo Ngài bảo hộ muôn dân. Tuy không có đạo sắc phong nhưng xét riêng pháp lực cũng đủ đứng ngang hàng với nhiều tướng lĩnh hùng mạnh khác đã hiển thánh. Lẽ ra, ta có thể tùy ý hành sự mà không cần thông qua ai cả. Nhưng phàm ở đời vuốt mặt đều phải nể mũi, cô cứ xem như là ta đang có lòng giữ lễ, bày tỏ chút thành kính với tiền nhân chốn này đi.”

Nói đoạn, hắn thả tay, để hai đồng xu rơi xuống chiếc đĩa sành, phát ra những tiếng kêu leng keng. Tôi há hốc miệng, mắt trân trân dán vào lòng đĩa, nhìn chúng xoay tròn, chao đảo một chút rồi nằm im. Kết quả cuối cùng hiện lên là một mặt sấp, một mặt ngửa.

“Được chứng luôn rồi đây.” Hắn gật gù ra chiều hài lòng. Tôi còn chưa hiểu mô tê gì đã thấy Khắc Duy nhe răng cười xảo trá, đưa cái đĩa tới trước mặt tôi. Cơ mà, hắn vừa nói được một chữ “này” thì bất thình lình, hai đồng xu như bị ma làm, dựng lên quay tít mấy vòng rồi lật ngược lại thành mặt sấp trước sự kinh ngạc của cả tôi và Khắc Duy.

“Cái gì thế?” Tưởng mình bị ảo giác, tôi vội đưa tay dụi mắt liên hồi. Nhưng không, không hề có sự nhầm lẫn nào ở đây. Đôi đồng xu với hai mặt cùng sấp biểu lộ sự khước từ của thần linh ấy vẫn đang nằm chình ình trong lòng đĩa. Rõ ràng, một thế lực vô hình nào đó vừa trực tiếp can thiệp vào làm thay đổi kết quả xin đài âm dương. Và đương nhiên, với người sở hữu đôi mắt từng thấy nguyên bầy âm binh hiện hồn giữa ban ngày như tôi thì không lý nào lại không cảm nhận được sự tồn tại của cái “thứ đó”.

“Duy... Duy ơi…” Tôi gọi khẽ, không dám quay đầu lại. Hai bên vai tôi lúc này vừa đau vừa nặng trĩu, tựa như đeo cả gánh đá trên đó vậy. Chưa kể, sống lưng tôi thì vừa đón một trận giá buốt, lạnh không thua gì gió bấc mùa đông trong khi bên ngoài trời đang nắng gắt.

“Nhìn... nhìn hộ tôi với, sau lưng tôi... có gì không?”

Khắc Duy lập tức đánh mắt về phía tôi bảo. Rất nhanh, hắn đã cho tôi câu trả lời mà bản thân tôi không muốn nghe nhất:

“Có, ta có thấy. Một phần của nó đang bám trên đầu cô.” 

Tim tôi rơi hẫng mất một nhịp, lưng đổ đầy mồ hôi lạnh. Khắc Duy ra dấu yêu cầu tôi im lặng, hắn giúp tôi khoác thanh kiếm lên người rồi dúi vào tay tôi lá bùa, dặn tôi nắm chặt.

“Đợi một lát nó sẽ tự buông ra.” 

Tôi máy móc gật đầu. Dù không trực tiếp chứng kiến nhưng tôi có thể hình dung rất rõ cảnh tượng đáng sợ đang diễn ra sau lưng mình. Thông thường, lý do khiến các vong hồn lang thang liều mạng bám theo tôi chỉ có một, ấy là nhập xác. Tất nhiên, chúng chưa bao giờ đạt được mục đích vì bản mệnh của tôi rất mạnh. Nhưng nói sao thì nói, bị ma quỷ đeo bám quá lâu cũng không phải chuyện tốt lành gì. Dựa vào cảm giác ớn lạnh tụ lại ở vị trí huyệt Phong Phủ (4), tôi tin chắc là cái thứ kia đang âm thầm hấp thụ dương khí của tôi và tìm cách thâm nhập.

“Nhật Dương… là mặt trời ban ngày nhỉ? Ban ngày thì dương thịnh âm suy, cô mệnh vô chính diệu, Diêu Y tọa mệnh, đã có Bạch Hổ, Hoa Cái, Long Trì, Phượng Các cùng chiếu về mà còn sinh ngày tháng thuần âm. Số một đằng, tên một nẻo như vậy bảo sao trong ngoài bất nhất. May mà gỡ gạc được âm dương thuận lý, mệnh cục bình hòa. Nhưng vẫn cứ là mồi ngon cho lũ ma quỷ thôi...”

Nghe Khắc Duy lẩm bẩm gì đó về số mệnh, tôi không khỏi hoài nghi là hắn đang nói xấu tôi. Khổ cái, chưa đợi tôi kịp hỏi han, hắn đã nắm cổ tay tôi mà kéo sang chỗ khác:

“Đi thôi, ta biết chỗ luyện binh ở đâu rồi. Xử lý chúng cho gọn để còn đuổi theo hai gã kia nữa.”

“Khoan đã, Khắc Duy!” Tôi thảng thốt níu vạt áo hắn, nhỏ giọng nói gấp vì phát hiện thêm chuyện bất thường. “Hình như chân tôi… chân tôi bị giữ rồi.”

Hắn lập tức cúi xuống, con mắt bên phải đột nhiên lóe sáng. Tôi cũng đưa mắt nhìn theo, không nhịn được kêu lên:

“Ối trời ơi!”

Dưới chân tôi, sàn nhà đắp đất vốn khô ráo giờ ướt đẫm một mảng, lõng bõng thứ nước đen đặc bốc mùi hôi thối, ẩm mốc. Mô tả chính xác thì nó hệt như loại nước bùn người ta hay đào được dưới huyệt mộ mỗi dịp sang cát. Tệ hơn cả, tôi lờ mờ thấy giữa vũng nước có năm đầu ngón tay trắng ởn, trơn nhớt đang từ từ chui lên khỏi mặt đất. Nếu đoán không nhầm, chỉ ít phút nữa thôi, nó sẽ chạm vào chân tôi. Theo bản năng, tôi rất muốn bỏ chạy, nhưng dù có cố gắng cách mấy thì cũng không sao nhúc nhích nổi. 

“Này, thứ yêu nghiệt kia, ngươi thấy người của đức Cửu Thiên Vũ Đế (5) phái đến, đã không biết đường tới trình diện còn ngang nhiên mạo phạm? Có phải ngươi nghĩ mình lấn át được Thổ công cai quản đất này là có thể tự do tác oai tác quái, không coi bề trên ra gì không?”

Khắc Duy lạnh lùng rút kiếm chĩa về phía bàn tay, trầm giọng quát:

“Khôn hồn thì biến đi, còn không đừng trách ta cậy quyền nhà Thánh đàn áp kẻ yếu. Nói cho ngươi hay, lưỡi kiếm của ta đã tiêu diệt vô số yêu ma quỷ quái trên khắp nước Nam này. Chút phép mọn ngươi sở hữu chẳng đủ đỡ được một đòn đâu.”

Nói vừa dứt câu, Duy liền thẳng tay cắm thanh kiếm xuống vũng nước, đồng thời kéo tôi về phía hắn. Ngay tức khắc, cảm giác bị trói buộc dưới chân tôi biến mất cùng với bàn tay ma quái. Vài giây sau, mặt đất trở lại bình thường, nhanh tới độ tôi cứ ngỡ như ở đó chưa từng xuất hiện dị tượng.

“Tưởng thế nào, mới dọa có chút đã cong đuôi chạy rồi ư?” Khắc Duy tỏ vẻ tiếc rẻ. “Đã kịp làm gì đâu!”

“Hẳn là chưa làm gì!” Đang sợ tái mặt, tôi vẫn phải bật cười vì sự “khiêm tốn” của Khắc Duy. “Anh đem cả uy danh của Đức Thánh Trần ra phô trương thanh thế, ma quỷ nào chịu được mà không chạy?"

“Biết điều thế là tốt.” Duy nhún vai, không rõ ý tứ là muốn dằn mặt tôi hay nói với con quỷ kia.

Do gặp chuyện phát sinh ngoài dự kiến nên thời gian còn lại của chúng tôi bị rút ngắn đáng kể. Thấy sắp hết giờ Ngọ, Khắc Duy quyết định đẩy nhanh tốc độ. Ra đến cửa, hắn để tôi đeo hai túi hành lý còn mình thì rảo bước tới cuối dãy hành lang. Ở đó, dưới góc tường bên trái đang đặt một chiếc chum bằng sành dung tích khoảng năm lít được đậy kín, trên thân chum trang trí nhiều kiểu hoa văn rất cầu kỳ. Hồi sáng hôm qua, lúc đứng đợi Khắc Duy bàn chuyện chia phòng với hai gã Trung và Thuận, tôi cũng đã chú ý tới nó. Một phần là bởi bản năng nghề nghiệp của tôi trỗi dậy, thấy “cổ vật” còn nguyên vẹn là phải quan sát ngay. Phần khác là tại vị trí người ta đặt cái chum rất dễ lọt vào tầm mắt, bản thân nó cũng là vật trưng bày nổi bật so với những món đồ nội thất có phần đơn giản của quán trọ.

Tôi ngó nghiêng xung quanh, xác định không có gì khác lạ mới lại gần Khắc Duy, thì thào hỏi:

“Trong này à?” 

“Ừ, chẳng những có lũ âm binh mà thần giữ của, ma gà, ma xó… đều trong đây cả.”

-

*Chú thích:

1, Thần Trùng: là hung thần chuyên bắt hồn người chết vào giờ Trùng. Hình Tượng chúng là một con vật giống như loài chim có cái mỏ màu đỏ nhưng lại có thân người. Thần Trùng thường xâm nhập vào những ngôi mộ mới để bắt linh hồn của người mới chết, khi những linh hồn này chưa về  m phủ mà còn quẩn quanh bên mồ trong thời gian bảy tuần. Thần trùng tra tấn đánh đập linh hồn vào lúc đêm khuya buộc hồn ma phải khai ra tên tuổi của cha, mẹ, con cái…để chúng sẽ bắt hồn của các người đó trong khoảng thời gian mà người thân của người chết còn đang chịu tang vì vậy dân gian gọi là bị Trùng bắt, có thể nói nôm na là chết trùng (Trùng Tang Liên Táng). Có thuyết cho rằng chúng là những con chim có mỏ đỏ đến mộ người mất mổ liên tục xuống quan tài là người mất đau khổ. Gọi đó là thần Trùng khảo mả. (Tham khảo “Ma quỷ dân gian ký” - Duy Văn)

2, Ốp: ý chỉ vong linh nhập hồn vào người sống

3, 36 vấn hầu: Hay giá hầu, trong nghi thức hầu bóng của tín ngưỡng thờ Mẫu có tất cả 36 giá hầu, mỗi giá đại diện cho một vị Thánh, gồm nhiều các giá như: các giá Mẫu, giá Trần Triều, giá Tứ Phủ Vương Quan, các giá Thánh Chúa, các giá Tứ Phủ Chầu Bà, các giá Tứ Phủ ông Hoàng, giá Tứ Phủ Thánh Cô, giá Tứ Phủ Thánh Cậu, giá hầu Quan Hạ Ban…

Tuy nhiên, một buổi hầu đồng sẽ không bao gồm đầy đủ 36 giá, mà thường là 8 – 15 giá và tùy thuộc vào tâm nguyện của người hầu đồng.

4, Huyệt Phong Phủ: huyệt ở vùng sau gáy, nằm ngay trên tuyến tóc, tại các vị trí lồi vào tại cạnh nấc thang ở cả hai bên của cổ. Vị trí này có tích tụ nhiều năng lượng dương.

5, Cửu Thiên Vũ Đế: ý chỉ Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Sau khi mất, ngài được nhân dân suy tôn là Đức Thánh Trần hay Cửu Thiên Vũ Đế Quốc Phụ Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout