Khi bưu phẩm của chị ấy đến tay tôi cũng là lúc đợt gió mùa Đông Bắc đầu tiên vừa ghé được hai ngày.

Lúc người giao hàng gọi điện, báo rằng có bưu phẩm cần ký nhận, tôi có hơi ngạc nhiên. Bao nhiêu lâu nay, ngoài bố mẹ ra thì hầu như chẳng có ai gửi gì cho tôi cả. Mà nếu bố mẹ có gửi, chắc chắn họ sẽ gọi điện báo trước cho tôi cả tuần.

Tôi hỏi lại với giọng dè chừng, rồi nhận được một cái tên.

Một cái tên, vỏn vẹn ba chữ, nhưng lại đủ sức khiến đầu óc tôi choáng váng, còn bàn tay đang cầm điện thoại thì run lên bần bật. Tôi mím môi, cầm chặt di động bằng cả hai tay, đáp lại người giao hàng bằng một câu nói lắp lộn xộn rồi cứ thế lao xuống cầu thang, không buồn để tâm đến việc thay dép đi trong nhà.

Bưu phẩm không to, chỉ là một chiếc hộp dài hơn một gang tay người lớn. Tôi nhận bằng cả hai tay, rồi cúi đầu nhìn chằm chằm tấm giấy viết thông tin dán trên nắp hộp. Những nét chữ nắn nót màu mực xanh nghiêng nghiêng nhìn về phía tôi.

Chị ấy vẫn vậy!

Tôi bật cười.

Vẫn thích màu xanh nhất trên đời. Vẫn thích viết chữ nghiêng về bên phải, chẳng bao giờ thẳng hàng thẳng lối.

Tôi đưa tay miết những hàng chữ nhỏ nhắn, đầu ngón tay vốn lạnh giá chợt ấm dần lên như có dòng nước nóng chảy qua. Tôi vừa ngước mắt lên, chưa kịp nói lời cảm ơn với bác giao hàng thì bỗng có giọt nước hắt xuống gò má. Tôi giật mình vì lạnh. Trong cái giật mình ấy, dường như còn có cả thảng thốt.

"Trời mưa rồi, thời tiết rõ dở hơi!"

Bác giao hàng bỏ lại một câu như vậy trước khi đề số con xe wave rồi phóng đi mất hút. Tôi đưa tay quệt giọt nước đậu trên má, chết lặng nhìn những đám mây xám nhợt đua nhau kéo đến, ùng ục túa ra như trong nồi nước sôi. Mưa rơi lách tách vài hạt, thưa thớt, chẳng theo nhịp điệu cố định nào. Những hạt mưa rơi nghiêng theo gió, bay thẳng vào mặt tôi rồi chầm chậm lan toả hơi lạnh sương muối.

Tôi vội vàng ôm lấy hộp bưu phẩm như ôm lấy báu vật rồi quay người chạy ù vào nhà. Tôi tự trách bản thân tại sao lại ngây người ra như vậy, lỡ cái hộp bị dính nước mưa thì phải làm sao? Tôi lo lắng kiểm tra một lượt, sau khi chắc chắn bưu phẩm vẫn còn nguyên vẹn, tôi mới thở phào nhẹ nhõm.

Vì không muốn làm rách tờ giấy viết thông tin người nhận dán trên nắp hộp, tôi đã dùng dao dọc giấy tỉ mỉ cắt lớp băng dính dán xung quanh từng tí một. Mười lăm phút sau, tôi nhấc tờ giấy ra, giơ lên trước ánh đèn, chăm chú ngắm lại từng con chữ, khoé môi bất giác cong lên. Tôi kẹp tờ giấy to bằng bàn tay vào quyển sổ ghi chép luôn mang bên mình. Sau đó, tôi mở nắp hộp ra.

Khoảnh khắc đó, tôi ước gì trái tim mình có thể ngừng đập ngay lập tức.

*

Năm năm trước, tôi bị ép đến Hàng Châu phụ giúp người cô họ buôn bán Hán phục. Một chữ tiếng Trung bẻ đôi tôi cũng không biết thì phụ giúp kiểu gì. Tôi thừa biết, đó chỉ là một cái cớ. Một cái cớ hợp tình hợp lý để đẩy một đứa trẻ được thừa kế một phần gia sản phải rời đi đúng vào lúc đại gia đình họp mặt.

Trong di chúc của ông nội có tên tôi, nhưng bà nội lại không muốn cái tên đó được tồn tại. Còn lý do tại sao thì tôi đã quá mệt mỏi để tìm hiểu, hoặc cũng có thể là vì tôi sợ. Giống hệt cảm giác sợ sệt khi phải bóc hành tây, càng bóc càng chỉ nhận lại đau đớn, đến cuối cùng cũng chẳng thu hoạch được gì.

Tôi xách balo rồi lên máy bay bay đến Trung Quốc ngay, không cần nói lời từ biệt với bất kỳ ai trong nhà, kể cả bố mẹ. Suốt hành trình, tôi đều nhắm mắt ngủ, dù không ngủ được cũng cố ru bản thân chìm vào giấc mộng. Tôi làm gì còn tâm trí mà ngắm cảnh hay thưởng ngoạn, bởi vốn dĩ tôi đi chuyến này đâu phải với tâm thế được tận hưởng.

Khi tới nhà của cô gần Tây Hồ cũng vừa lúc giọt nắng cuối ngày biến mất sau gót chân. Tôi không buồn ngẩng đầu nhìn, chỉ lầm lũi xách chiếc balo đơn bạc rồi cứ thế đi thẳng lên phòng đã được chuẩn bị trước. Bảo là lần đầu tiên đến đây thì cũng không đúng lắm. Hồi còn học phổ thông, tôi đã từng tới Hàng Châu một lần. Nhưng đó chỉ như chuyến dừng chân chớp nhoáng trên lộ trình của khách bộ hành bận rộn, chẳng để lại ấn tượng gì quá sâu đậm.

Bước vào phòng, tôi ném tạm balo xuống sàn rồi thả người lên giường. Chăn ấm đệm êm lập tức đưa tôi chìm vào giấc ngủ. Sáng hôm sau, rồi nhiều hôm sau đó nữa, tôi bắt tay vào công việc như một cái máy. Nhiệm vụ của tôi là sắp xếp lại thông tin khách mua hàng đã được điền sẵn, không cần phải giao tiếp với ai. Dường như cô biết rõ vảy ngược của tôi cho nên đã cố ý như vậy. Tôi không phải đứa mù mờ đến mức không nhận ra điều đó. Nhưng tôi là đứa rất ghét phải mang ơn người khác, nhất là người trong họ. Cho nên, tôi tự học tiếng Trung trong thời gian rảnh, giảm bớt phiền toái vì bất đồng ngôn ngữ khi đối chiếu lại thông tin khách hàng.

Suốt ba tháng trời, tôi không bước chân ra khỏi nhà lấy một bước. Tôi cũng chẳng lấy thế làm phiền lòng. Nơi này không có chỗ nào khiến tôi cảm thấy hứng thú hay nhất định phải tìm hiểu cả. Nghĩ như thế nên sau khi tan làm, mỗi ngày tôi đều yên tâm ngồi nhâm nhi bánh ngọt trong phòng, mắt dán vào mấy bộ phim sitcom.

Nhưng rồi đột nhiên có một việc đã khơi lên sự tò mò cho tôi.

Hôm đó là một buổi sáng có mưa bụi lâm râm. Mưa rơi đột ngột, không nặng hạt nhưng kéo dài, đủ làm người ta ướt áo nếu đi dưới trời mưa quá hai phút. Khách trong quán rất đông, hầu hết đều không mang ô. Chờ một lúc vẫn không thấy mưa ngớt nên họ lục tục lấy điện thoại ra gọi người thân tới đón. Người đến người đi nườm nượp, tiếng giày tiếng guốc gõ lộp cộp xuống nền nhà, tiếng nói chuyện huyên náo hoà quyện với nhau khiến lỗ tai tôi ong lên như có tổ vò vẽ ngay sát bên. Tôi làm nốt mấy tờ còn lại rồi nhanh chóng đứng lên, đang định quay vào nhà trong ngồi thì cảm thấy tay áo bị ai đó níu lại.

"Anh gì ơi, quán có thể cho tôi mượn ô được không?"

Âm sắc rất nhẹ, mềm như nước, giọng phổ thông rành rọt, du dương quanh quẩn bên tai khiến tôi bất giác ngoảnh đầu lại. Vừa nhìn thấy bộ Hán phục màu thiên thanh được đặt may là tôi biết ngay người này là ai. Số lượng Hán phục đặt may ở quán rất ít, cho nên thông tin người mua được ghi chép rất cẩn thận và chi tiết.

Chị ấy thấy tôi nhìn thì cụp mắt xuống, vẻ mặt hơi khó xử.

"Nhà tôi gần đây thôi, nhưng giờ này không có ai ở nhà cả, tôi còn có việc gấp nên..."

"Tôi biết rồi, chị đợi một chút."

Đó có lẽ là câu đầu tiên tôi nói với người khác kể từ khi đặt chân đến đây. Nghe tôi nói xong thì chị ngẩng đầu, đôi mắt thoáng ngạc nhiên rồi nhanh chóng bị lấp đầy bởi vẻ bối rối.

"Tôi xin lỗi... Tôi..."

Tôi biết chị ấy xin lỗi vì việc gì, nhưng tôi cũng chẳng để tâm lắm. Tôi rảo bước vào nhà trong, thấy cô tôi đang tất bật treo lại Hán phục, tôi cũng không tiện làm phiền, dù gì thì tôi cũng biết chỗ cô hay để ô.

"Đi đâu đấy?" Tiếng của cô vang lên sau lưng tôi, dường như rất ngạc nhiên.

"Chị khách duy nhất đặt may Hán phục ở quán muốn mượn ô."

"À, con bé đó là khách quen, nhà gần đây thôi. Nếu cháu rảnh thì..."

Không để cô nói hết, tôi sải bước ra ngoài. 

Chị ấy đứng trước bàn làm việc của tôi, hai bàn tay đan vào nhau, nghiêng đầu nhìn ra khoảng trời đầy mưa bụi trước cửa. Khi thấy tôi trở ra với chiếc ô giấy dầu, chị không giấu được vẻ vui mừng và cảm kích trong đôi mắt. Chị nhận ô bằng cả hai tay rồi còn không quên hứa sẽ mang trả vào hôm sau. Tôi chỉ đáp một câu "Được" xong quay người đi. Có vẻ chị cũng không thấy phiền với hành động đó của tôi. Chị chào tạm biệt rất khẽ, nhưng đủ để tôi nghe được. Chỉ là, vào lúc chị giương ô rồi đi vào màn mưa giăng mắc như sương trắng ngoài trời, tôi có quay đầu lại nhìn chị qua đuôi mắt.

Trên tà váy màu thiên thanh ấy có đôi hạc do chính tay tôi thêu, nhỏ thôi, nhưng tôi liếc mắt là thấy. Đôi hạc ấy dập dềnh như đang bay theo từng nhịp chân bước của chị. Tôi không ngờ chúng lại có dáng vẻ như thế. Không, phải là chưa bao giờ nghĩ tới mới đúng. Vốn dĩ chỉ là rảnh rỗi không có gì làm thì nghịch một chút, ai dè, cô tôi lại lấy tấm vải đó để may váy.

Tôi đã định từ bỏ sở thích nhỏ nhặt đó rồi. Vốn đã định thế...

*

Lần mưa bụi thứ hai ghé đến, tôi vừa kịp chuyển xong gói hàng cuối cùng lên chiếc thuyền nhỏ. Khách đặt mua là một người phụ nữ sống ven Tây Hồ. Đều đặn mỗi ngày đều có thuyền gỗ chở khách hoặc hàng hoá nhỏ trôi lững lờ trên Tây Hồ. Đây có lẽ là lần đầu tiên tôi được ngắm nơi sông nước này gần đến thế. Và có vẻ như, ông trời cũng muốn tôi nán lại lâu hơn chút nữa thì phải.

Vì không mang theo ô giấy dầu nên tôi ngồi xuống thuyền, bằng lòng dạo một vòng Tây Hồ, chờ mưa ngớt. Khi lái đò đội mũ tre chuẩn bị đẩy thuyền đi thì một bóng hình cầm ô vội vàng chạy tới.

"Đợi một chút!"

Tôi nhận ra đó là chị chỉ qua chất giọng nhẹ tựa lông hồng. Tôi quay đầu sang, ngước mắt nhìn lên, chị rũ mắt nhìn xuống, hơi sững lại vài giây. Chị vẫn mặc bộ Hán phục như lần trước, nhưng chắc vì chạy vội nên phần váy gần gót chân vấy đầy bùn, còn hai bên vai áo lấm tấm vài vết vải thấm nước.

Chị bước xuống thuyền. Con thuyền chòng chành khiến chị suýt ngã. Tôi vội vàng nhổm dậy đỡ lấy tay chị. Chiếc ô giấy chao đảo trên không rồi cả tay chị lẫn tay cầm của ô đều nằm gọn trong lòng bàn tay tôi. Chị ngước đôi mắt phượng có đuôi lên, nhìn tôi không chớp. Tôi đặt ánh nhìn lên vành tai hơi đỏ của chị rồi bất chợt trông thấy lọn tóc mai đen nhánh bị dính nước dán chặt vào cần cổ trắng nõn. Tôi đảo mắt.

"Trong thuyền vẫn còn chỗ."

Tôi đỡ chị ngồi xuống rồi nhanh chóng thu ô lại. Chị ngồi đối diện tôi, nhưng tôi không nhìn chị. Có vẻ như chị vẫn còn khá bối rối, không biết nên bắt chuyện như thế nào để phá vỡ khoảng im lặng khó xử này.

Tôi ngồi im, vẫn không lên tiếng câu gì. Những ngôi nhà có mái ngói màu đen uốn lượn, tường xám tro phủ đầy rêu phong lần lượt trôi qua trước mắt. Mưa mau hơn, rải lên cảnh vật một lớp khói mờ ảo. Gió hiu hiu thổi, những hàng liễu bên bờ xoã mái tóc xanh mướt thả trôi lững lờ theo gió. Có vài chiếc lá nhỏ xíu vương đầy nước bay vào tới thuyền, đậu lên mu bàn tay tôi. Cái lạnh nhè nhẹ lướt qua da khiến tôi hơi sởn gai ốc. Thuyền thì chòng chành, cảnh lại bồng bềnh như sương như khói. Tôi bất giác cảm thấy chóng mặt.

Trong cơn mơ màng ấy, tôi đột nhiên ngửi thấy một mùi hương rất lạ. Giống như mùi cỏ ngai ngái sau cơn mưa, mà lại thoang thoảng mùi gỗ đàn. Mùi hương ấy lướt qua cánh mũi khiến lồng ngực dễ chịu lạ thường. Tôi quay đầu sang, đột nhiên thấy chị đã ngồi bên cạnh tôi từ lúc nào.

"Cậu không quen ngồi thuyền à?"

Chị cất giọng với vẻ quan tâm. Tôi chỉ gật đầu mà không đáp. Ánh mắt tôi dừng lại ở đôi hạc trên tà váy của chị, không hề cố ý. Tôi chỉ nhìn đúng ba giây rồi lại dời tầm mắt ra khung cảnh ngoài thuyền. Chị đột nhiên bật cười. Tiếng cười rất nhỏ.

"Tớ nghe cô chủ quán nói, cậu là người thêu đôi chim này hả?"

Tôi lập tức quay đầu lại nhìn chị, lòng chợt cảm thấy bồn chồn. Đã rất lâu rồi, tôi không đụng đến mấy thứ như vậy nữa. So với những lời khen xã giao mà tôi từng được nghe trong quá khứ, tôi sợ phải đối mặt với nỗi thất vọng giấu trong đáy mắt người đối diện hơn. Tôi không trả lời câu hỏi của chị. Nhưng sự im lặng của tôi đã tố cáo tất cả. Đôi mắt của chị dường như có thể nhìn thấu tôi. Chị vuốt nhẹ đôi hạc trên tà váy.

"Tay nghề của cậu cũng khá đó chứ. Nhưng mà đôi hạc này nhỏ quá. Lần sau có thể thêu to hơn được không?"

Đáng lẽ lúc đó tôi nên từ chối. Nhưng nhìn nụ cười lẫn ánh mắt chân thành của chị, không hiểu sao lời tới miệng rồi nhưng tôi lại không thể thốt ra nổi. Tôi biết, đó đã trở thành một lời giao hẹn ngầm, rằng chính tay tôi sẽ hoàn thành một bộ Hán phục chỉ dành riêng cho chị.

Và kỳ lạ thay, tôi không ghét điều đó.

*

Tôi vẫn nhớ cuộc trò chuyện đúng nghĩa lần đầu tiên của chúng tôi. Đó là hôm chị đến đặt may Hán phục do chính tay tôi thiết kế. Nói là trò chuyện, nhưng chủ yếu là chị hỏi, tôi trả lời. Nhưng tôi không cảm thấy khó chịu chút nào, và có vẻ như chị cũng thế. Sau khi lấy những dữ liệu cần thiết xong, chị ngỏ lời mời tôi uống trà. Tôi thì chỉ thích ru rú trong nhà, rất hiếm khi ra ngoài đi đâu đó, chứ đừng nói đến việc đi với người không thân.

"Vẫn chưa tới giờ tan làm."

Tôi kiếm cớ. Chị có hơi thất vọng, nhưng ngay lập tức xua xua tay tỏ ý không sao. Dường như chị nhận ra sự từ chối ẩn ý của tôi, cho nên cũng không tiếp tục chủ đề đó nữa. Tôi cứ nghĩ chị đã từ bỏ rồi, nhưng không ngờ hôm sau, chị lại mua một cốc hồng trà sữa rồi mang đến tận tay cho tôi, nói là quà cảm ơn. Chị ấy đã có lòng đến mức này, nếu còn từ chối nữa thì xem ra tôi sẽ trở thành một người không hiểu chuyện.

Tôi nhận cốc hồng trà rồi bóc vỏ ống hút ra. Lúc đó, một chiếc phiếu nhỏ bằng hai đốt ngón tay chợt rơi xuống đất. Tôi cúi người nhặt lên, chỉ thấy con số 13 in nghiêng. Tôi còn đang nhíu mày khó hiểu thì chị bỗng reo lên.

"Ôi!"

Tôi liếc mắt nhìn chị. Chắc chị thấy phản ứng của mình hơi quá nên vội đưa tay che miệng, mắt đảo sang hai bên nhìn xem mọi người có chú ý hay không. Giọng chị nhỏ lại, nhưng vẫn không kìm được sự phấn khích.

"Quán này đang có hoạt động mua trà được tặng phiếu quay số trúng thưởng đó."

Tôi nghe lời giải thích của chị xong thì thấy hơi buồn cười. Chị ấy lớn vậy rồi mà còn vui vẻ đến thế vì trò may rủi này à? Đúng là đồ trẻ con!

"Đố cậu biết, phiếu cốc của tớ là số mấy?" Mắt chị cười cong cong như trăng lưỡi liềm.

"Số mấy?"

"Số 14 đó!"

Tôi vẫn ngây ra không hiểu ý chị là gì. Chắc vẻ mặt tôi lúc đó ngốc nghếch lắm nên chị cứ cười mỉm suốt, còn ra vẻ thần bí.

"Hoá ra là cậu không biết. Không nói cho cậu biết đâu."

Không nói thì thôi. Tôi đâu phải đứa có tính trẻ con như chị.

Tôi vốn dĩ chẳng để tâm đến hai tấm phiếu đó, thậm chí còn không thèm đi thử vận may. Con số 13 thì có gì là may mắn? Mãi sau này, tôi mới hiểu, hoá ra ngày đó chị vui vẻ đến thế hoàn toàn không phải vì trò quay số may rủi.

Tiếc là, khi ngoảnh đầu nhìn lại, chỉ thấy kỷ niệm vẫn ở đó đầy dày vò, nhưng bất lực không thể nào thay đổi được gì nữa.

*

Tôi đậy nắp hộp bưu phẩm lại, mặc thêm áo khoác rồi bắt chuyến xe buýt lên Hồ Gươm. Phố đã về chiều, dòng xe chen chúc nhau trên con đường hẹp. Tiếng còi xe inh ỏi đập vào tai đau nhức. Nhiều người sốt ruột vì xe buýt mãi không nhúc nhích nên vội vã xuống đi bộ. Chỉ lác đác vài người ở lại, trong đó có tôi.

Không biết qua bao lâu mới đi hết con đường quen thuộc. Cũng không biết trong khoảng thời gian đó, tôi đã nhớ tới điều gì, nghĩ những gì. Chỉ cảm thấy cái lạnh mùa đông gặm nhấm từ đầu ngón tay vào thẳng trong lòng. Lạnh đến mức nổi gai ốc. Tôi ôm chặt lấy chính mình, rụt đầu vào trong chiếc mũ áo rồi thiu thiu ngủ.

Tôi thoáng ngửi thấy mùi hương thân quen, mùi cỏ và gỗ đàn hoà quyện quyến luyến trên vai áo. Tôi giật mình thảng thốt, dáo dác nhìn xung quanh, cố kiếm tìm một hình bóng nào đó khắc ghi trong tâm trí. Nhưng dội vào đáy mắt chỉ là chiếc ghế trống không.

Đến trạm dừng, tôi xuống xe rồi quay đầu nhìn về phía sau như một thói quen. Đáp lại tôi là cánh cửa xe đóng sập ngay trước mắt. Tôi dằn xuống sự hụt hẫng trào lên trong lòng, đưa tay kéo mũ lông trên đầu xuống thấp hơn chút nữa.

Tôi lững thững bước đi trên phố đi bộ, tạt qua quán kem định mua một que bạc hà. Nhưng lúc tính tiền, cô gái đứng cạnh tôi lại nũng nịu nói với chàng trai đi cùng: "Em thích ăn kem sữa chua! Kem sữa chua ngon hơn!"

Tôi thuận miệng nói với cô bán hàng: "Đổi cho cháu kem sữa chua."

Hồi còn ở Hàng Châu, chị ấy rất thích ăn mấy thứ chua chua ngọt ngọt. Có lần, chúng tôi thả bộ bên Tây Hồ, mua hai xâu kẹo hồ lô rồi đứng trên cầu đá, vừa ăn vừa ngắm cảnh đêm.

Tây Hồ về đêm nước đen như mực. Những nhà ven hồ thắp đèn hoa đăng hắt ánh sáng vàng dìu dịu xuống mặt hồ, tạo nên cảnh sắc lung linh kỳ ảo như trong phim cổ trang. Chị vừa ăn kẹo vừa thích thú giải thích những kiến trúc quanh hồ cho tôi nghe. Tôi cầm xâu kẹo trong tay, quay sang nhìn chị. Nói một lúc, chị chợt nghiêng đầu hỏi tôi.

"Kẹo không ngon à? Hay cậu không thích?"

Thấy chị đã ăn hết xâu kẹo trong tay, ánh mắt vẫn thòm thèm, tôi nhịn cười rồi nhét xâu đang cầm vào tay chị.

"Nếu ăn sẽ bị dị ứng chảy nước mắt."

Lúc đó, chị cứ nghĩ là tôi nói dối để nhường chị xâu kẹo. Sau này, khi dẫn chị đi chơi ở Hà Nội, đến Hồ Gươm ăn kem, lúc tôi không chú ý, chị nghịch ngợm nhét que kem sữa chua vào miệng tôi.

Mùi sữa chua thơm nồng xộc lên mũi, tôi ho sặc sụa, nước mắt giàn ra.

Tôi nhìn que kem hai màu hồng trắng trong tay, mím môi rồi há miệng cắn hai miếng hết cả que. Cái lạnh ùa tới, răng tê cóng không còn cảm giác gì. Vị chua chua ngọt ngọt lợm cả giọng khiến cổ họng vừa lạnh vừa nóng. Nước mắt ngay lập tức trào ra, nhưng đã bị tôi quệt sạch.

Hoá ra, vị sữa chua cũng không đáng sợ như tôi tưởng. Cổ họng bỏng rát thì đã sao? Khoé mắt cay xè thì đã sao? Đó mà được gọi là nỗi đau ư...

Tôi lầm lũi đi xuyên qua dòng người ngược xuôi. Cảnh vật xung quanh rất đỗi quen thuộc, nhưng tôi lại chẳng cách nào hoà nhập. Giống như bức tranh tươi vui bỗng dưng có giọt mực lạc quẻ rơi xuống, không thể sửa lại được, chỉ đành vứt đi.

Tôi đi bộ về nhà. Nghĩ cũng thật buồn cười, chắc chẳng có ai lên Hồ chỉ để ăn một que kem rồi về như tôi đâu nhỉ? Tôi cười giễu cợt chính mình. Bước chân tự do đi đến mọi nẻo đường, không cần đích đến. Đi đến tận khi trời tối mịt, lưng áo ướt sũng mồ hôi, trán thấm hơi gió lạnh, đầu óc tỉnh táo lên chút ít thì tôi mới về tới nhà.

Một mồi lửa và vài cành cây khô, chiếc hộp nhỏ bốc cháy tức thì. Tôi cúi đầu nhìn ngọn lửa vàng bốc lên, ngấu nghiến từng phần của chiếc hộp. Khói khét lẹt phả vào mặt khiến hốc mắt cay xè, nhưng tôi vẫn cố mở to mắt nhìn. 

Lửa nhuộm màu thiên thanh thành khói, biến từng thớ vải thành tro tàn. Đôi chim hạc co quắp trong lửa đỏ, duỗi cánh tan vào không trung. Cháy hết. Ngay cả tro cũng bay theo gió. Không còn lại gì.

Mắt tôi chợt nhoà đi, có lẽ là vì khói quá nhiều. Tôi giơ ống tay áo quệt hai cái. Nhưng nước mắt vẫn trào ra không ngớt. Tôi lại quệt thêm một lần nữa. Lần nữa, rồi lại lần nữa, cho đến khi hai bên mắt đau rát mới cảm thấy tốt hơn một chút. Bấy giờ, tôi quay gót vào nhà.

Lúc cởi áo khoác ra, tôi sờ thấy quyển sổ luôn mang bên mình, trái tim chợt nhói một cái. Bàn tay giở sổ cứ run lên. Tờ giấy với những nét chữ quen thuộc hiện ra trước mắt, giống như từng chiếc kim châm vào nhãn cầu của tôi, đau nhức không thể chịu nổi. Bên dưới tờ giấy là chiếc phiếu năm nào, màu mực in có cũ đi, nhưng con số 13 vẫn hiển hiện rõ ràng.

Tại sao nó lại sắc nét đến vậy?

Tại sao tôi lại đãng trí đến thế? Đốt bưu phẩm nhưng lại giữ lại thứ này sao?

Tôi cong khoé môi, vội vàng tìm bật lửa. Nhưng vào khoảnh khắc sắc vàng nóng bỏng phụt lên, tay tôi run đến độ đánh rơi bật lửa.

Lúc nãy, khi đứng nhìn bưu phẩm cháy hết, tôi cho tay vào túi áo làm gì? Tôi giữ cái gì?

Chỉ mình tôi biết.

*

Ba ngày sau, một người bạn thân thiết với chị gửi email cho tôi, báo rằng chị đã đi Pháp hưởng tuần trăng mật rồi, tôi có đến cũng không gặp được đâu. Thật tiếc vì tôi phải đi công tác vào đúng ngày cưới của chị, không thể đến dự. Cô ấy còn gửi rất nhiều ảnh chụp cho tôi xem.

Chị mặc bộ hỷ phục đỏ truyền thống rất đẹp. Ảnh nào chị cũng cười. Nhưng nhìn kỹ thì nụ cười ấy không lên tới mắt.

Tôi ngây ngốc nhìn chị qua màn hình máy tính, ngược dòng thời gian để xoá đi những ký ức xa xôi. Từng ánh mắt nụ cười, từng lời hẹn ước, đến cái chạm tay đầu tiên, cái ôm dưới hiên nhà trong một chiều mưa xa vắng. Mùi hương hoa cỏ hoà với gỗ đàn trong hơi thở của chị. Mái tóc dài tết đuôi sam nằm gọn trong lòng bàn tay tôi. Đôi mắt phượng hay nhìn về phía tôi. Giọng nói êm tai, nhẹ nhàng như suối chảy dưới khe.

Chị đưa tay che miệng, mắt cười cong cong: "Cậu không biết 1314 nghĩa là gì sao?"

"Không biết."

"1314 có nghĩa là 'Một đời một kiếp' đó. Cậu sẽ mãi là em gái kết nghĩa của tớ."

Tôi ước gì, chị chưa từng nói với tôi ý nghĩa con số đó.

Nhưng tôi vốn dĩ không có tư cách ấy.

Ngay từ đầu...



0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout