Thái sư giờ này thường cùng Tự Minh đế dùng trà bánh ở ngự uyển, lúc Lê Văn Uyên tìm tới vừa hay trông thấy ông đang ngồi dưới đình nghỉ mát trò chuyện cùng hoàng đế.
Lê Văn Uyên không bước đến ngay mà cứ đứng đó một lúc lâu, đợi thái giám bên cạnh Tự Minh đế vô tình bắt gặp rồi khom lưng báo lại, khi ấy hai người mới đồng loạt quay sang nhìn. Thái sư nói gì đó với hoàng đế, vẻ mặt chàng bỗng trở nên vui vẻ hứng khởi hơn, sau đó ông vẫy tay gọi y.
Ngự uyển tháng này dần thấy lá vàng nhiều hơn sắc thắm của trăm hoa, Lê Văn Uyên sải bước giẫm lên lá khô, nghe tiếng loạt soạt giòn tai vang lên dưới đôi guốc gỗ cũ kĩ. Dừng trước hai nấc thang dẫn vào mái đình nhỏ, Lê Văn Uyên chắp tay cúi đầu làm lễ chào, song chưa kịp nói câu nào đã có một bàn tay đỡ lấy nâng y thẳng người dậy.
“Chào vậy là đủ rồi.” Tự Minh đế cười nói, “Ngươi mau vào đây ngồi, ngoài trời nắng nóng, dùng chút trà mát với ta nhé.”
Lê Văn Uyên gật đầu cảm ơn, ngồi xuống bên cạnh Thái sư khi thấy ông vỗ ghế ra hiệu cho mình.
“Ta nghe Thái sư kể nhiều về ngươi, mãi mới có dịp gặp mặt.” Tự Minh đế nói rồi sai người lấy thêm chén trà cùng ít bánh, “Công việc ở sở Bạch Thiện thế nào? Có cần ta giúp ngươi chuyển đến lục bộ không? Dù sao thì làm việc với giấy bút trông vẫn hợp với ngươi hơn.”
“Cảm ơn bệ hạ đã quan tâm.” Lê Văn Uyên cúi đầu nhận lấy chén trà từ tay chàng, “Có lẽ bệ hạ cũng biết bên ngoài thần là người quản lý Hồng Diên, quần áo sáng chiều vốn vẫn luôn nặng mùi củi lửa, thân thể này sớm đã làm bạn với khói bếp. Sở Bạch Thiện hiện giờ chính là nơi phù hợp nhất dành cho thần rồi ạ.”
Tự Minh đế dù gật gù lắng nghe song vẫn cảm thấy tiếc nuối không thôi, cộng với việc đã đọc qua thư mẫu do chính tay Lê Văn Uyên viết, chàng càng thêm luyến tiếc, huống chi Thái sư còn là người bồi dưỡng Lê Văn Uyên từ nhỏ. Cử chỉ và lời nói y thể hiện đều hết mực nhã nhặn đúng lễ, vẻ kính nể vừa đủ, Tự Minh đế nhìn thôi mà lòng cũng chợt mát dịu.
Thái sư đột nhiên bật cười thành tiếng, quay sang vỗ nhẹ vai y: “Bệ hạ xem, lão nói có đúng không? Đứa trẻ này chẳng ham gì chức quan, ta khuyên mãi nó vẫn chẳng lay chuyển tí nào.”
Tự Minh đế cũng tấm tắc không tiếc lời khen dành cho Lê Văn Uyên, nán lại thêm chút nữa thì chàng phải về cung tiếp tục xử lý công vụ. Lúc chỉ còn hai người, Thái sư mới hỏi: “Sao đột nhiên con tới đây vậy?”
“Con tìm thầy ạ.” Lê Văn Uyên nhấc ấm trà rót cho Thái sư và mình chén mới, “Không hiểu sao con muốn cùng thầy ôn lại chuyện cũ.”
Thái sư mỉm cười, vươn tay cầm dĩa bánh đậu ở góc bàn xa nhất đưa y dùng thử: “Nghe con nói thế, ta bất giác nhớ lại dáng vẻ thiếu niên năm ấy của con.”
“Năm ấy lần đầu gặp thầy, con vừa tròn mười bốn nhỉ?” Lê Văn Uyên cắn một miếng bánh đậu nếm thử, bột bánh rơi xuống lưỡi mềm ngọt tan nhanh như đường, “Chớp mắt đã tám năm, mong ước của con mãi cũng đã đạt được, phần đều nhờ thầy ở cạnh dạy dỗ giúp đỡ.”
Gói một chữ “thù” vào hai chữ “mong ước” nghe sao mà nhẹ bẫng, song mùi khói lửa tanh nồng ngày ấy vẫn còn quanh quẩn trước mũi Lê Văn Uyên chưa tan. Lê Văn Uyên nhiều lần tự hỏi tại sao, có lúc còn nghi hoặc rằng lẽ nào suốt tám năm qua là y đang nằm mộng, mở mắt tỉnh dậy mới biết chuyện vẫn chưa bắt đầu. Thế nhưng mỗi đêm, cơn đau buốt trải dọc từ chân lên đến lồng ngực ra sức dằn xé y dữ dội, như hét vào tai y tất cả đều là thật, đều đã kết thúc rồi.
Lê Văn Uyên bỗng nở nụ cười thoáng vẻ mỉa mai, vì người ghét chịu đau như y phải nhờ tới cơn đau mới có thể phân biệt thật giả. Lá vàng rơi phủ mái đình, gió thu hiu hiu mang theo cái ấm của nắng trưa vuốt nhẹ lọn tóc nằm bên sườn mặt y, thử xua đi muộn phiền giấu dưới đáy mắt kia nhưng không được.
“Thầy còn nhớ thầy từng hứa sẽ cho con gì trước khi nhận con làm học trò không?” Lê Văn Uyên xoay nhẹ chén trà trong tay theo vòng tròn, nhìn mặt nước nghiêng ngả đủ chiều vẫn chẳng có lấy một gợn sóng nào dù là nhỏ nhất.
Thái sư cụp mắt gật đầu, nhớ lại khoảnh khắc mình nắm lấy bàn tay lạnh buốt run rẩy của thiếu niên.
“Ta sẽ không cho con vinh hoa phú quý, không cho con đi trên thảm hoa. Thứ ta cho con chỉ có khung cảnh thái bình của Đại Xuân khi Vĩnh Đế còn trị vì, là quốc thái dân an, vua tôi đồng lòng. Nếu theo ta mà muốn rạng danh chốn quan trường thì con phải tự bắt lấy cơ hội, ta không cấm, nhưng con phải biết con đường đó của con sẽ khó khăn hơn người khác gấp bội phần.”
Lê Văn Uyên mười bốn tuổi nào cần giàu sang, nào có mưu cầu gì cho chính bản thân đâu. Mấy chữ quốc thái dân an, vua tôi đồng lòng chẳng khác nào một cây cột gỗ nặng trịch đánh mạnh vào tim y, khiến y sực hiểu bản thân sinh ra là để làm gì. Dường như Lê Văn Uyên giống cha giống mẹ, sinh ra là để dành cả đời vì mảnh đất mang tên Đại Xuân.
Nhưng khó quá, thật sự khó quá. Đi rồi mới biết đường này tối đen như mực, không cẩn thận sẽ lạc mất chính mình lúc nào chẳng hay.
Lê Văn Uyên biết thời điểm hiện tại thì viễn cảnh thái bình thời Vĩnh Đế vẫn còn xa lắm mới chạm tới được, y cũng chẳng có ý thúc giục gì Thái sư. Chỉ là y sợ bóng tối, sợ mình lạc bước rồi dừng lại thôi kiên trì nữa nên mới tìm tới người thầy này để trấn an bản thân. Liệu Thái sư có hiểu nỗi lòng vô hình ấy chăng? Lê Văn Uyên không biết, song bàn tay đang vỗ về tấm lưng gầy của y thực sự đã giúp tâm trí y yên tĩnh lại phần nào.
“Con tiếp tục làm học trò của thầy được đúng chứ?” Lê Văn Uyên chợt cười hỏi.
Thái sư gật đầu không đáp, hướng mắt trông về phía trời cao vắng bóng mây.
Tiếng thở dài bị gió thu cuốn đi.
Lê Văn Uyên cứ im lặng ngồi cạnh ông uống trà, sau thái giám nhắc nhở Thái sư đã đến giờ gặp mặt Thượng thư bộ Hộ, ông mới đứng dậy, trước đó không quên hỏi thăm bệnh tình của Lê Văn Uyên, nói sẽ cho người mang thuốc tới khi nghe y bảo thuốc đã sắp hết. Lê Văn Uyên tiễn Thái sư rời đi, thay vì quay về sở Bạch Thiện, y lại ghé khu tạp dịch gặp Phạm Tranh.
Nhác thấy Lê Văn Uyên, ánh mắt Phạm Tranh đột nhiên trở nên phức tạp. Nó nhớ lại nét thất vọng của y lúc nghe xong sự thật về tạp dịch Quang lộc tự, cảm thấy khó hiểu vô cùng. Phạm Tranh vốn chỉ xem mối quan hệ giữa mình và Lê Văn Uyên là một cuộc giao dịch đôi bên cùng có lợi, chưa từng nghĩ Lê Văn Uyên sẽ thật lòng quan tâm khu tạp dịch và chính nó như thế nào, bởi thế sự thất vọng khi đó của y làm nó bối rối không thôi.
“Sao ngươi lại đến đây nữa?” Phạm Tranh nhíu mày hỏi, “Chuyện chẳng phải đã kể rõ hết rồi à?”
Lê Văn Uyên ngang qua vò mạnh đầu nó, bảo: “Đến giao việc cho ngươi.”
Căn bếp nhỏ như biến thành lãnh địa của riêng hai người, Lê Văn Uyên đi thẳng vào bếp chẳng chút do dự, ngồi xuống cái ghế cũ rồi bắt chéo chân chống cằm nhìn Phạm Tranh: “Có giấy bút không?”
“Có, nhưng không có mực đâu.” Nó đáp.
“Vậy à.” Lê Văn Uyên nghiêng đầu nhìn bếp than, “Vậy thì lấy ít than đen nghiền thành bột, cho tí nước vào pha.”
“Ngươi về chỗ ngươi lấy mực là được mà.” Phạm Tranh tặc lưỡi, “Rườm rà quá.”
Lê Văn Uyên vươn tay nhéo lấy cái miệng của nó: “Dạo gần đây ta thoải mái quá nên chắc ngươi quên mất ta là ai hả? No bụng rồi thì không cần cơm nữa à?”
Đau thì đau chứ mặt nó vẫn tỉnh rụi, Lê Văn Uyên thở dài buông ra, để nó chạy đi mang giấy bút về cho mình.
Phạm Tranh dùng một cái chén nhỏ đựng mực làm từ bột than, lúc đem tới phòng bếp, nó trông thấy Lê Văn Uyên đứng chắp tay sau lưng, phóng mắt ra ngoài song cửa xiêu vẹo chuyên dùng để thông khói từ bếp củi. Nó không biết diễn tả ánh mắt ấy của y thế nào, nó chỉ biết lòng mình day dứt khó chịu vì đã vô tình bắt gặp hình ảnh kia. Ánh mắt giống hệt Phượng Hạ mỗi khi kể về quê hương, về những điều yêu thích nhưng chẳng còn cơ hội để thực hiện.
Đó là ánh mắt khao khát mãnh liệt một thứ gì đó nằm ngoài khả năng.
“Xong rồi à?”
Nghe Lê Văn Uyên hỏi, Phạm Tranh khẽ giật mình thoát khỏi những suy nghĩ vẩn vơ, vội đưa giấy bút cho y, yên lặng đứng cạnh cầm chén mực nhìn y chấm bút.
Phạm Tranh không biết chữ, song những con chữ đều đều hiện lên trang giấy trắng mỏng kia vẫn khiến nó thầm buông lời khen đẹp. Khác với kiểu chữ nó từng thấy trên mấy tờ thông báo truy nã của huyện, chữ của Lê Văn Uyên hút mắt đến lạ, đâu đó mang nét riêng đặc biệt, có lẽ gặp lần đầu thì lần hai sẽ nhận ra ngay, khó quên lắm.
Lê Văn Uyên dừng tay rồi mà hai mắt Phạm Tranh vẫn dán chặt vào trang giấy, y nghiêng mặt nhìn dáng vẻ chăm chú của nó, sau đó nâng bút viết lên tường một chữ, kêu nó nhìn rồi hỏi: “Chữ này là gì ngươi biết chứ?”
Phạm Tranh lắc đầu, Lê Văn Uyên nói tiếp: “Là tên của ngươi.”
Đôi mắt thiếu niên dường như sáng lên trong một thoáng, tròn xoe nhìn y. Lê Văn Uyên lại nâng bút chấm vào cái chén trên tay nó, viết thêm một chữ nằm trước chữ vừa nãy: “Còn đây là Phạm, ghép lại chính là Phạm Tranh, là ngươi đó.”
“Vậy còn Phượng Hạ?” Phạm Tranh tò mò hỏi.
Lê Văn Uyên tiếp tục chấm mực ghi lên tường, kế bên cái tên của nó: “Phượng Hạ, nghĩa là cây phượng và mùa hè à… Tên đẹp đấy nhỉ.”
Phạm Tranh nghe thế lập tức ngẩng đầu nhìn y nở nụ cười tươi rói: “Đúng là đẹp thật.”
Đây là lần đầu tiên Lê Văn Uyên thấy nó cười tươi như thế, cả gương mặt bỗng chốc sáng bừng, tràn ngập vô tư ngây thơ của một đứa trẻ đơn giản. Lê Văn Uyên chớp mắt ngạc nhiên, ít lâu sau cũng mỉm cười như lời đáp lại.
Nắng lọt qua song cửa, lặng lẽ chạm đến tay áo hai người một lớn một nhỏ.
Mực trên giấy cũng đã khô rồi.
Bình luận
Chưa có bình luận