Khi mà tia nắng đầu tiên ló dạng nơi chân trời cũng là lúc mà mấy người còn lại trong nhà họ Nguyễn bỏ xuống trái tim đang treo cao vì sợ hãi.
Tối qua, sau khi bà Tâm bị quỷ nhập, cô gái cầm đèn kỳ lạ kia đã giúp trấn áp con quỷ, khiến nó không thể tuỳ tiện hành động. Thấy vậy, An và cô hai của cậu cũng chẳng còn dám ngủ nghê gì nữa mà theo cô gái kia, suốt đêm nhìn chằm chằm vào mẹ An đang bị quỷ nhập.
Đến sáng này, thấy con quỷ im im như người vờ ngủ, bà Tâm cũng theo đó mà gục xuống nên đám người mới đặt bà lên phản ở trước nhà, cô gái còn dùng loại chỉ có màu đỏ như máu trói hai tay hai chân bà Tâm lại, rồi dán lên trán bà một lá bùa. Xong xuôi, cô gái mới yên tâm mà nói với An và bà cô hai:
“Tạm thời con quỷ đã bị trấn áp. Nhưng đây không phải là kế lâu dài, kéo dài thêm sẽ khiến người bị nhập hao mòn đến chết.”
An nghe vậy, không kiềm được mà nói với cô gái:
“Vậy bây giờ mẹ tôi phải làm sao? Cô có cách gì cứu mẹ tôi không?”
Cô gái lắc đầu đáp:
“Thông thường bị ma quỷ nhập thì có thể chịu chút thương tổn mà trục hồn nó ra nhưng nữ quỷ này đã thành lệ quỷ, nếu cưỡng chế trục hồn thì mẹ cậu sẽ chết chắc”.
“Có một chỗ tôi thấy lạ là khi đó, rõ ràng con quỷ có thể tấn công ba người để lấy thêm lệ khí nhưng nó lại chọn nhập hồn, chắc chắn là có nguyên nhân khác. Nguyên nhân lớn nhất là nó còn có chấp niệm!”
“Chấp niệm gì cơ?”
An nghi ngờ hỏi cô gái.
“Oán linh hay ma, quỷ thường được sinh ra bởi hai thứ, thứ nhất là oán niệm, là do bị giết chết tức tưởi hoặc bị hãm hại mà chết. Thứ hai là chấp niệm, linh hồn không thể siêu thoát vì còn lưu luyến người hay vật ở nhân gian, lâu ngày sẽ biến thành ma, quỷ”.
“Nếu tôi đoán không lầm thì con quỷ này vừa có oán niệm vừa có chấp niệm cho nên giết người xong vẫn còn cố nhập vào mẹ cậu”.
Vừa suy nghĩ, cô gái vừa hướng An và cô hai mà nói.
Bà Loan nghe thế liền ngập ngừng nói:
“Vậy… bây giờ phải làm sao?”
Với giọng nghiêm túc, cô gái đáp:
“Bây giờ phải tìm hiểu nguồn cội việc này, nếu không được thì chỉ còn cách hỏi quỷ”.
Nói xong, cô gái liền hỏi An và bà cô về những việc kỳ lạ xảy ra gần đây, từ đó biết được nhiều bí mật trong căn nhà này.
Theo lời bà Loan thì trước khi bà Ba Lý chết, nhiều lần có đề cặp đến việc mình bị một người phụ nữ áo đỏ xiết cổ bằng dây thừng, rồi còn nói nhà này có quỷ muốn giết mình. Lúc đó, cả nhà không ai tin vì bà nội của An vốn có sẵn bệnh hen suyễn nên việc thấy hơi khó thở cũng là chuyện thường.
Đến sau khi bà nội An mất, ông nội của cậu cũng cũng bắt đầu hơi lạ. Đầu tiên là mời thầy đến làm phép, mà nhà này đó giờ vốn tin tà, lại thêm chuyện bà Ba mất nên mọi người cũng không nghi ngờ. Rồi từ sau đó cứ thấy ông như lo lắng, sợ hãi cái gì đó nên đâm ra ăn không ngon, ngủ không yên, hiếm khi ngủ được thì lại gặp ác mộng.
Đêm mà ông nội An mất là một đêm mà ông ngủ sớm, cả nhà nghĩ ông mệt quá nên thấy ông ngủ cũng không làm phiền. Đến sáng hôm sau, khi mẹ An vào gọi ông ra ăn sáng thì đã thấy ông nằm bất động, mình mẩy tím tái khắp nơi.
Khi An và bà Loan kể đến đây, đột nhiên nhìn nhau rồi nhận ra một điểm, chính là khi ông nội An mất, nơi cổ đặc biệt tím tái dữ dội như là bị xiết cổ.
Rồi đến khi ông Bình mất mới đây cũng vậy, là do bị xiết đến gãy cổ mà chết.
Có thể thấy, ba cái chết này đều có điểm chung là bị xiết cổ đến chết, thế nên chắc chắn là do con quỷ này gây ra.
Theo cách cô gái nói, người chết đầu tiên thường là người có nhân quả lớn nhất đối với con quỷ, thậm chí có thể là người đã giết chết, khiến nó oán hận mà thành quỷ.
Đến khi nghe An kể về mấy chuyện kỳ lạ trong nhà từ tiếng động không biết từ đâu, cảm giác có người nhìn mình cho đến giấc mơ kỳ lạ mà cậu gặp phải.
Cả ba người đều nhận ra nhà này có kỳ dị, chắc chắn có oan khuất hay bí ẩn nào đó bị giấu đi từ thời ông bà của An kéo đến tận bây giờ.
Ba người thảo luận một hồi, biết có chuyện oan khuất nhưng chẳng có manh mối, phần vì hôm nay là ngày chôn của ông Bình nên tạm thời mọi chuyện được gác sang một bên.
Cứ như đã quen, nghi lễ nhanh chóng diễn ra rồi ông Bình cũng được chôn xuống dưới sự chứng kiến của hàng xóm xung quanh, đôi lúc có người thắc mắc vì không thấy bà Tâm thì An cùng cô cậu liền nói lý do đã thống nhất từ trước là mẹ An đã ngất xĩu vì kiệt sức.
Đến trưa, chuyện chôn cất ông Bình đã xong trong êm đẹp, An cùng bà Loan vừa nhớ lại vừa đi với cô gái tìm kiếm manh mối trong nhà này. Ba người lục tung cả nhà, từ phòng ngủ đến phòng bếp nhưng cũng chẳng tìm được manh mối gì. Dự định tiếp tục đi qua nơi khác thì ngoài cổng có tiếng vọng vào:
“Vợ cậu Bình có nhà không? Tôi đến thắp nén nhang cho cậu…”
Nhìn từ xa, thấy người nói là một bà lão già nua, trên mặt hiền đầy dấu vết của tuổi tác. Dáng đứng của bà hơi kỳ lạ, giống người bị đau chân lâu ngày nên đứng không thẳng nổi.
Thấy vậy, cô hai của An ra mở cửa, vừa nhìn thấy người này liền nhận ra mà kêu:
“Thím Tư? Thím Tư phải không?”
Giọng già nua của bà lão cất lên:
“Cô hai, là tôi Tư Thì đây!”
Hoá ra bà lão là người ở của cái nhà này trước đây, đến khi nhà này không còn của ăn của để nữa thì bị đuổi đi, mấy người lớn như bà Loan hay mẹ An cũng đều nhớ mang máng.
Đi vào nhà, bà lão lần lượt đi thắp nhang bàn thờ, sau đó chấm nước mắt mà đi lại ngồi gần ba người:
“Tôi nhà vốn ở xa xôi, nghe tin cậu Bình mất thì đến nhưng đã trễ, cô cậu đừng trách thân già này”.
Bà Loan đáp:
“Thím Tư nói gì vậy, thím đến là con vui lắm rồi”.
Hàn huyên vài câu, hết hỏi thăm sức khoẻ rồi đến chuyện gia đình, cuối cùng theo cô gái nhắc mà bà Loan hỏi dò với bà lão:
“Thím Tư này! Thím ở nhà này lâu vậy, có biết chuyện…có người nào đó tự tử không?”
Bà lão nghe vậy liền như giật mình, đôi mắt nhìn mấy người mang vẻ sợ hãi, không dám nói ra một lời nào.
Hơn bốn mươi năm trước, khi mà nhà họ Nguyễn còn khá giả bậc nhất cái xứ này, lúc bấy giờ người con trai duy nhất của nhà này lấy được một cô vợ vô cùng môn đăng hộ đối, gia cảnh cũng chẳng hề tầm thường. Khổ nỗi một chuyện là cô này về nhà đã vài năm nhưng chẳng nghe động tĩnh gì nên là bà mẹ chồng liền tìm cho con trai mình một người vợ thứ.
Người vợ hai cưới về chưa được bao lâu đã bụng mang dạ chữa, không lâu sau liền sinh ra một đứa con gái. Mặc dù là sinh con gái nhưng bà mẹ chồng lại hết sức vừa ý, cực kỳ nâng niu cô này và lại càng lạnh nhạt hơn với người vợ cả.
Chưa được mấy năm, cô vợ sau lại một lần nữa mang thai. Lần này cô được cưng như bà hoàng, thậm chí nhà này còn mời bác sĩ từ thành phố về khám và nghe tin cái thai rất có thể là con trai.
Mặc dù bà hai này vốn không tranh giành, cũng không hề khinh ghét hay lên mặt với người vợ cả nhưng từ khi cô mang thai, cả cái nhà này càng được đà mà đối xử tàn tệ với bà này, thậm chí còn buông lời mắng nhiết. Thế là tất cả sự tủi nhục của người vợ cả hoá thành nỗi hận với người vợ sau, đến cuối cùng đã ra tay cướp đi tính mạng của người này.
Hôm đó, vì mắc đám ở miệt xa nên nhà này chỉ còn mỗi bà mẹ chồng ở lại. Biết tính mẹ chồng hung dữ có thừa, lại cực kỳ hà khắc, nhiều lúc còn cho đánh người hầu đến sống sống dở chết dở, gãy chân gãy tay còn là chuyện thường.
Bà vợ cả chờ ngày đã lâu, liền thông đồng với kẻ hầu bỏ thuốc vợ hai, khiến người mê man rồi cho nam đinh vào ân ái. Xong chuyện lại khiến mẹ chồng bắt tận tay, miệng không ngừng thêm dầu vào lửa làm vợ hai đang mang thai cũng thành mang thứ nghiệt chủng, trăm miệng cũng khó thoát tội.
Lần đó động chuyện rất lớn, ban đầu mẹ chồng cũng chỉ dám nhốt người lại, đợi chồng con về mới dám xử lý. Nhưng nghe lời vợ cả thì liền sinh cơn giận, cho người đánh mắng lăng mạ khiến cô kia mười phần khổ sở. Đêm đến, người vợ cả lại cho người rạch mặt cô này, đánh đập đến hư thai, cuối cùng lại cho người xiết cổ đến chết, dựng lên chuyện vợ hai sợ tội nên treo cổ tự tử.
Đến khi người nhà hay biết thì vợ hai đã chết hẳn, lại còn một xác hai mạng, mặt lại bị rạch nát nên nhìn vô cùng ghê tởm. Nhà này vốn quyền uy, lại sợ lời ra tiếng vào nên ém nhẹm chuyện này, qua loa chôn xác cô vợ mới chết vào một nơi khuất mắt sau vườn.
Khi người chồng về đến nơi thì chỉ còn thấy mồ mã đã xong, dù giận lắm nhưng cũng không làm được gì, chỉ là thêm căng thẳng với người vợ cả. Nhưng mà không biết đâu ra, mấy hôm sau liền hay tin bà cả này cũng mang thai nên thương còn không hết, huống chi là xét nét chuyện cũ.
Bẵng đi một thời gian, đến gần ngày sanh đẻ mà bà cả này cứ như phát điên, cứ bảo là nhà này có ma. Người mẹ chồng cũng vậy, cứ trằn trọc ác mộng nên là quyết mời thầy về xem.
Nghe đâu ông thầy là người có tiếng tỉnh bên, nên thỉnh ổng về thì ổng nói gì nhà này liền nghe răm rắp.
Như ông này nói, người chết một xác hai mạng oán khí sẽ rất nặng, phải tách mẹ và con ra mới tránh được. Thế nên, liền cho người đào ngay phần mộ của cô này lên mà mổ bụng lấy con.
Giữa trưa, sau khi ông thầy làm phép thì gia đinh liền đào xác này lên, cho đến khi mở manh chiếu ra thì người nào người nấy liền xanh mặt, có người liền trực tiếp quỳ lạy mà van xin. Bởi dưới lớp chiếu, cái xác cô này hoàn toàn nguyên vẹn, mắt lớn mở trừng trừng như đang nhìn đám người. Dưới ánh nắng, làn da tái nhợt loang lỗ thi ban như có khói đen bốc lên, toả ra một mùi thối vô cùng kinh tởm càng khiến người ta sợ hãi.
Chỉ thấy ông thầy không sợ mà dán lá bùa viết chữ đỏ lên trán tử thi rồi bấm pháp quyết niệm chú gì đó. Ngay giây sau, đôi mắt vốn trợn trừng của xác nữ liền nhắm lại, khói đen cũng theo đó không toả ra nữa.
Xong chuyện đó, ông thầy này mới mổ bụng cái xác này ra, làm từ bên trong chảy ra một đống thứ nước đen thui gớm ghiếc, trong đó lúc nhúc một đám giòi lớn, có con còn to bằng cả ngón tay người.
Một hồi, ông thầy lấy được cái xác trẻ ra, bỏ vô cái hộp gỗ đen đã chuẩn bị sẵn rồi dán bùa lại. Thấy ông thầy này còn chần chừ một lát, rồi lại dùng dao khoét lấy hai con mắt nữ thi đem cầm trên tay, hướng cô hầu bảo với bà mẹ chồng rằng:
“Khoét mắt sẽ khiến cho vong linh mãi mãi không tìm được con mình, cũng không thể quấy phá nữa. Chỉ là càng lâu, oán khí của vong này sẽ càng nặng, cuối cùng thậm chí có thể hoá quỷ. Nhất định phải không cho nó tìm được mắt, nếu không nhà này sẽ gặp hoạ lớn”.
Xong xuôi, ông thầy lại làm phép mấy ngày, cuối cùng đưa một hộp gỗ cho nhà này cất kỹ, một hộp lại đem đi.
Sau lần đó, nhà này liền không còn chuyện lạ, điểm lạ duy nhất là cho đến khi bà cả sanh con, dù là sanh con trai nhưng cũng chẳng thấy ai kiếm thịt heo, thịt gà gì mà bồi bổ. Thậm chí, mấy tháng liền nhà này không động tới một miếng thịt nào.
“Oẹ oẹ…”
Nghe bà tư này kể xong, bà Loan tái xanh mặt mày mà chạy đi nôn ói. Còn lại An cùng cô gái cũng vô cùng khiếp đảm.
Ban đầu, vốn là có hỏi làm sao bà này cũng không chịu nói, chỉ đến khi An kể chuyện về cái chết lạ kỳ của người nhà này, bà lão mới bấm bụng kể lại.
Vốn chỉ tưởng là có người tự sát rồi hoá quỷ, nào ngờ chuyện xưa lại còn như thế, khiến mọi người chẳng ai còn tin vào tai mình.
Thậm chí, cô gái vốn trầm tĩnh còn thốt lên với giọng giận dữ rằng:
“Hay cho một tà pháp! Hay thật! Tách xác mẹ con, lại khoét mắt người, rõ ràng là đang cố tình nuôi quỷ.”
“Cô nói cái gì mà nuôi quỷ?”
An quay sang hỏi cô gái.
Từ đó cậu được biết, sản phụ một xác hai mạng vốn đã mang oán khí, mà tách mẹ cùng con chính là khiến cho mãi mãi không siêu sinh, phải không ngừng đi tìm máu mủ của mình. Lại thêm khoét mắt người, là khiến họ vốn khi chết đã u mê càng thêm lầm đường lạc lối, không bao giờ thoát khỏi ác đạo. Đây là một thuật nuôi quỷ tàn độc bậc nhất, khi quỷ thành sẽ gây hoạ cho đương gia, thậm chí phải giết hết người trong nhà để chứng quỷ đạo.
Nghe ra đã rõ, ai cũng đã hiểu rằng ông thầy pháp năm xưa vốn che mắt mà hãm hại nhà này, tưởng chừng là giúp đỡ nào ngờ lại khiến từng mạng từng mạng mất đi. Đây hoặc là mối thù không đội trời chung, hoặc là nhà họ Nguyễn vốn đã dính đến mưu toan nào đó.
Lúc này, cô gái đột nhiên lại quay sang hỏi bà lão:
“Bà, theo câu chuyện thì bà cả là bà Ba Lý, con quỷ là người vợ hai. Vậy con gái của nữ quỷ đó không lẽ là…?”
Bà lão gật gật đầu, trầm ngâm không nói mà nhìn về phía người đi lúc nãy.
Bình luận
Chưa có bình luận