Thịnh triều, ẩn hoạ




Ngày ấy, đất nước vừa bước qua một thời loạn lạc, cờ xí còn in màu khói lửa, mà triều Khánh Lâm đã vươn mình rực rỡ như áng triều dương. Vua Trình Thái, bậc minh quân trẻ tuổi, sau khi đánh tan quân xâm lược phương bắc, được chư hầu dâng ngọc, xin kết giao. Trong lễ hoà nghị, vua nhận cặp ngà voi đúc bằng ngọc lưu ly, khắc lời nguyện: “Hai nước hoà thuận, giữ vững biên cương đến trăm năm”.


Năm đó, vua đăng cơ tròn tám năm. Vua trẻ tuổi, quả quyết, và nhiều tham vọng, ngài quyết định mở rộng kinh tế, khai phá đất hoang, tìm nguồn vàng bạc cho quốc khố. 


Trong một lần ngự giá vi hành về phương nam, đoàn xa giá đi qua rừng Khâm, rồi đến vùng Thanh Ninh là nơi địa thế bằng phẳng, núi liền sông, sông liền đầm. Đi theo vua, ngoài thị vệ và thư lại, còn có một đội đặc biệt: “Địa quan bí lục” những người chuyên lập địa đồ mật cho triều đình, được vua ưu ái nên phong chức Địa quan hầu, chỉ là không ghi danh trên sử sách. Người đứng đầu là quan Viễn Du. Một thầy địa lý lão luyện, giỏi tính toán sông núi, giỏi đọc mạch long hồ dưới chân người. 


Suốt ba tháng ròng, họ khảo sát núi rừng, đo hướng thuỷ khí, đêm dựng trại trên sườn đồi, ngày đánh dấu các vùng đất “khí tụ không tản”. Khi trở về, Viễn Du dâng lên tấm bản đồ thô, ghi chú ba vị trí: 


“Phù sa thịnh, khoáng khí vượng, long tụ mạch ngầm.”


Vua Trình Thái xem xong, mắt sáng lên: “Khanh thấy sao nếu lập mỏ vàng tại đây?”


Viễn Du vuốt râu, trầm ngâm: 


“Muôn tậu bệ hạ. Đất này linh thiêng. Long khí vượng mà lệch, sẽ xô mạch vận. Nếu đào mà không thuận thiên, dễ sinh hoạ lớn cho xã tắc.”


“Ý trẫm chẳng phải là ý trời sao?” Vua bật cười, tiếng cười dội khắp điện ngọc.


Cả nhóm quan lạy rạp xuống. Viễn Du cúi đầu: 


“Muôn tâu bệ hạ. Người xưa có dạy: thờ - thiêng – kiêng - kị. Vận trời không phải ai cũng xoay được. Nơi ấy, khí quá dày, mạch lại không thông. Nếu khai, sợ sinh nghịch mệnh.”


Vốn dĩ mê tín, vua Trình Thái lặng thinh. Đêm đó ngài cho gọi Viễn Du vào trướng riêng. Sau một canh giờ luận mạch địa vận nước, vua hạ chỉ niêm bản đồ. 


“Trẫm ban cho người triện son, đóng lại mảnh đồ này, và cất giữ như tín vật. Không mang ra bàn, không đem vào sổ. Ai hỏi, nói là chưa từng có.”


Sáng hôm sau, trước điện Thừa Lân, vua dùng triện son khắc hình rồng ngậm ngọc, đóng vào góc bản đồ. Dấu triện chìm vào tấm giấy gấm, vết mực đỏ quạch, như máu long rỉ xuống từ thời vận còn chưa định hình. Từ đó, tấm bản đồ mất tích khỏi chốn triều đình. chỉ còn truyền qua một dòng họ Viễn như một khúc huyết sử bị niêm phong bởi chính tay vua. 


Nhưng một bản đồ, dù có triện son niêm ấn, cũng không thể vùi lấp được lòng tham.


Nhiều năm sau, Viễn Du cáo lão về quê, trong người mang theo tấm bản đồ. Ông vẫn luôn cất giữ nó như một tín vật quan trọng, vì nếu để lọt vào tay kẻ xấu, ắt sẽ sinh hoạ lớn. Con trai ông là Viễn Mẫn, người sau này trở thành giáo thụ ở phủ Vân Sơn, dù không theo nghiệp cha, nhưng là người am đọc sách thánh hiền, mở lớp chiêu đãi nhân tài. Dâng lên cho triều đình hai người sau này trở thành Hàn Lâm học sĩ.


Vua Đình Thái luôn tiếc nuối vùng đất ấy, quốc khố hiện đang cạn dần vì chiến tranh biên giới. Trần Tắc , quan Thượng thư Bộ Hộ, người được vua Trình Thái tin dùng nhờ tài kinh bang tế thế. Hắn thao lược, miệng lưỡi khéo léo, thường dâng sớ khuyên vua:


“Đất nước muốn giàu mạnh, tất phải tận dụng tài nguyên. Nếu long mạch thật sự có vàng, thì đó chẳng phải là lộc trời ban cho bệ hạ sao?”


Vua Trình Thái ban đầu còn lượng lự. Nhưng khi nghĩ đến tình cảnh hiện giờ, Trần Tắc cạng mạnh miệng. Cuối cùng, ngài mềm lòng, ra lệnh tìm lại Viễn Du để lấy tấm bản đồ năm xưa. 


Chính lệnh ấy đã mở đầu cho một chuỗi kỳ án mới.


Viễn Du lúc đó đã về quê ở ẩn, sống cuộc đời giản dị trong một gian nhà cũ nơi chân núi Động Quỳ. Khi lính triều tìm đến, ông khước từ:


“Các người quay về tâu với vua rằng đất ấy không tầm thường. Nếu phạm vào trời sẽ không dung tha.”


Biết không thể lay chuyển Viễn Du, Trần Tắc ra tay ngầm. Hắn sai thuộc hạ ám sát Viễn Du ngay trong đêm, rồi dâng sớ tâu vua rằng:


“Kẻ phản loạn Viễn Du đã đem bản đồ bán cho sứ thần ngoại bang. Nay triều đình phải hành động trước khi bí mật quốc thổ bị tiết lộ.”


Vua Trình Thái nghe tin nổi giận. Trong cơn cuồng nộ, ra lệnh bắt giam cả nhà Viễn Du, khép vào tội mưu phản, định tru di tam tộc. Cùng lúc, vua liền sai lính tiến hành khai phá vùng Thanh Ninh theo bản vẽ lại do Trần Tắc dâng lên.


Nhưng từ lúc lưỡi cuốc đầu tiên chạm đất, tai hoạ đã bắt đầu.


Mặt đất Thanh Ninh rung chuyển, cây cối héo rũ, đầm lầy nứt ra thành khe máu đỏ. Đào đến đâu, gia nô chết đến đấy: ngã lăn, thổ huyết hoặc hoá điên cuồng lao vào hố. Trong ba ngày, mười sáu người chết. Đêm thứ tư, một phần đất sụp xuống thành vực sâu, đá chôn cả doanh trại. 


Vua Trình Thái hoảng sợ, đêm ngủ còn gặp ác mộng thấy long thần rồng trắng nổi giận, thét rằng:


“Phá mạch ngọc của trời, ngươi sẽ bị nguyền rủa suốt bảy đời.”


Sáng hôm sau, nhà vua hạ chỉ chém đầu Trần Tắc, lập tức thả Viễn Thọ và giao trọng trách giữ tấm bản đồ. “Nhất quyết không được để ai giữ lấy nó.”


Sau đó, vua đích thân mở rộng đất đai Thanh Ninh, không vì mỏ vàng, mà để lập chùa, dựng đình, khai hoang ruộng đồng, tạo lập nơi ở cho dân chúng tứ xứ đến an cư. 


Ngài nhận ra một điều: “Dân có nhà, nước mới bền. Vàng bạc chưa chắc giữ được vận, nhưng lòng dân thì có.”




0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout