Chương 45: Bức Tranh Ngày Tận Thế



Trời càng về khuya, ánh đèn dầu trên bàn cứ lập lòe lên rồi lại xuống, làm cho mấy cái bóng người trên tường cũng thoắt ẩn thoắt hiện. Khi này Mận đã hết chuyện để nói, cụ từ từ tựa đầu lên vai tôi rồi thiêm thiếp ngủ. Vạn vật như thể chìm xuống, chẳng còn nghe thấy gì ngoài tiếng gầm gừ đáng sợ của ông Khởi.

Bên cạnh tủ thờ phía trong cùng, đột nhiên dì Năm lên cơn thở dốc, rất nhanh sau đó dì đã ngã lăn đùng ra đất, khắp người nổi toàn là gân xanh dị hợm. Khi này mọi người trong nhà ai nấy đều tỉnh ngủ, lo lắng tản ra tứ phía. 

“Nhanh lên, mọi người mau kiếm dây trói dì Năm lại nhanh đi.” Tôi hét lớn. 

Lúc này cụ Sang và cụ Kiên đã thủ sẵn trên tay cọng dây thừng, mỗi người giữ một bên vai, cẩn thận buộc dì Năm vào cây cột đối diện với ông Khởi. Trước khi hoàn toàn biến thành thây ma, dì Năm vẫn còn bảo rằng mình không sao hết. Quan sát kỹ một chút, tôi phát hiện ngay bên bả vai của dì có một vết xước dài cỡ bằng một gang tay. Thì ra khi tôi gặng hỏi còn ai bị ông Khởi cắn hay không, dì đã nói dối. Có lẽ khi ấy dì không ngờ rằng một vết xước nhỏ cũng có thể khiến mình ra nông nỗi này. 

Sự việc diễn ra quá nhanh đến nỗi khiến bà hai phải ngã khuỵu thêm lần nữa. Một người là chồng, một người đã theo bầu bạn và chăm sóc cho bà mấy chục năm trời, đùng một cái đã không còn ai bên cạnh nữa. Bây giờ bà có khóc cũng không sao khóc ra thành tiếng. 

Tuy đau đớn là vậy, nhưng bà hai vẫn cố chấp tin rằng hai người họ vẫn còn sống. Bà nói đợi đến sáng sớm ngày mai, khi họ chìm vào giấc “ngủ”, bà sẽ để họ ở trong nhà kho sau vườn rồi từ từ tìm thầy thuốc chữa trị. Tôi biết mình không thể dễ dàng thay đổi suy nghĩ của bà hai, nên đành tạm thời nghe lời bà. Qua đó tôi cũng dặn dò kỹ càng từng người một trong nhà, dặn là cho dù có chuyện gì xảy ra cũng không được tự ý mở cửa căn phòng đó. 

Thế rồi đêm đầu tiên bắt đầu kỷ nguyên tận thế cũng đã chính thức trôi qua. Đúng như thỏa thuận từ trước, đợi khi cái xác của ông Khởi và dì Năm dần lịm đi dưới ánh mặt trời, những người còn lại đã tranh thủ khiêng họ vào nhà kho và khóa chặt cửa lại. Đương nhiên đó chỉ là giải pháp tạm thời và duy nhất để bà hai yên lòng, tôi sẽ tìm thời cơ thích hợp để xử lý cho đúng quy trình, tránh hậu quả khó lường sau này.

Buổi sáng đầu tiên sau ngày tận thế, mười mấy cái xác nằm la liệt trước cổng và xung quanh đoạn đường dẫn vào nhà họ Huỳnh. Sau cái chết đồng loạt ấy, những thân nhân còn lại của họ người thì mất cha mẹ, kẻ mất đi trụ cột gia đình, kẻ thì không còn vợ con,... làng Vọng Thê giờ chẳng còn gì ngoài một đống hoang tàn đổ nát. 

“Cậu hai ơi cậu hai, cậu làm ơn làm phước cho tui mượn ít tiền để mần đám ma cho chồng tui đi cậu hai.” 

Một người phụ nữ một tay ôm chồng, tay còn lại níu lấy chân cậu Đằng mà van xin dữ dội. Phận làm thuê làm mướn suy cho cùng cũng chỉ đủ trang trải qua ngày, nên khi người thân ra đi đột ngột như vậy, mấy người nông dân tội nghiệp khác cũng chỉ biết hỏi mượn tiền của cậu Đằng, của nhà họ Huỳnh để lo hậu sự. Trước giờ cậu Đằng vẫn luôn đối xử tốt với bà con trong xóm, nhưng lần này cậu cũng chỉ biết lặng thinh đứng nhìn, ngay cả cha của mình cậu còn không lo được một tang lễ tử tế, thì cậu biết làm sao cho đúng đây? 

“Thưa các cô các chú, chuyện làng mình có quá nhiều người ra đi chỉ trong một đêm là vì họ mắc một căn bệnh truyền nhiễm. Con biết là bây giờ các cô chú rất đau lòng, nhưng mà thay vì làm đám ma như bình thường, chúng ta phải mau chóng đem xác họ đi thiêu trước khi trời tối.” Tôi nhẹ nhàng giải thích. 

Một cụ già gần đó đã lớn tiếng đáp lại: “Mợ nói như vậy mà nghe được sao hả mợ hai? Người dân ở đây khi chết đi đều muốn được chôn cùng với ông bà tổ tiên. Phận đàn bà như mợ thì biết gì về dịch bệnh mà đòi đem đi thiêu xác vậy mợ hai?” 

“Đúng đó. Nhà họ Huỳnh mấy người thấy chết mà không cứu, không muốn cho tụi tui mượn tiền thì cứ nói thẳng ra đi. Cần chi phải lấy cớ này cớ nọ. Đã tuyệt tình tới vậy thì tụi tui tự đem về chôn cất cũng được. Về thôi mọi người.”

Nhưng có giải thích bao nhiêu lần đi chăng nữa, thứ tôi nhận lại cũng chỉ là những lời chỉ trích của họ. Không một ai muốn người thân của mình sau khi chết đi phải tan xương nát thịt, tất cả những gì họ cần bây giờ chỉ là có một nơi để người thân an nghỉ sau khi qua đời. Ngoài ra, những lời hàm hồ khác họ đều bỏ ngoài tai mà thôi. 

Cuộc tranh luận vừa kết thúc, ai nấy đều thi nhau gồng gánh những cái xác ấy về nhà. Nếu cứ tiếp tục như vầy, chắc chắn đêm nay sẽ có thêm nhiều người vô tội ngã xuống nữa. 

Tôi theo chân cậu Đằng đi dọc quanh làng Vọng Thê, xót xa nhìn quê hương của cậu ngày một lụi tàn. Những cánh đồng thưa thớt người, những con đường nhuốm đầy máu tươi, những manh chiếu mới vừa được đan xong đã vội đắp lên người thay cho chiếc quan tài, những mái nhà tranh đìu hiu bên tiếng khóc,… Bên kia bờ kênh, có người nông dân nghèo còn cặm cụi đào miếng đất nhỏ nằm cạnh nhà để làm nơi an nghỉ cho vợ mình, cũng có người khốn khổ hơn, họ chôn xác người thân ngay trong căn chòi liêu xiêu giữa đồng không mông quạnh. Tất cả mọi thứ, tất cả đều giống hệt bức tranh về ngày tận thế trong tưởng tượng của tôi. 

Xa xa, chúng tôi chợt thấy một bé gái mặt mày lấm lem, một mình đứng mếu máo trong ngơ ngác. Cậu Đằng thấy vậy nên ngồi xuống bên cạnh cô bé, ân cần hỏi: 

“Sao con đứng đây mình ên vậy? Cha má con đâu?” 

Cô bé thút thít trả lời: “Dạ… hức… thưa cậu… hức… con cũng hổng biết cha má con đang ở đâu nữa.” 

Chúng tôi lặng đi trong tiếng khóc của cô bé. Có thể sau đêm qua, cha mẹ nó đã không còn trên đời này nữa. Những đứa trẻ mồ côi không nơi nương tựa, làm sao đủ sức vượt qua số phận đây?

“Ngoan, đừng khóc nữa. Con tên gì? Nhà ở đâu? Để cậu đi hỏi thăm cha má giùm con.” Cậu Đằng dịu dàng xoa đầu cô bé.

“Dạ… con tên là Xuyến. Nhà con ở bên mé sông kia kìa.” Xuyến lễ phép trả lời, còn chỉ tay ra hướng bờ sông. 

Nơi chúng tôi đang đứng đây chỉ toàn là bụi rậm sầm uất, là vườn chuối mọc um tùm. Chốc chốc lại nghe thấy tiếng gió rít qua kẽ lá làm tôi thiếu đi cảm giác an toàn. Lần này có vẻ đáng sợ hơn lần trước, tôi nghe được những tiếng xào xạc phía bên vườn chuối ngày một gần hơn, mấy tàu lá chuối còn dập dìu phất phơ mặc dù khi ấy chẳng có miếng gió nào. Không dừng lại ở đó, tôi còn cảm nhận được tiếng dậm chân liên tục trên nền đất, như thể có ai đó đang chạy thật nhanh về phía chúng tôi vậy. 

Không phải chứ? Không phải nó chỉ hoạt động vào ban đêm thôi sao? 

Tôi lùi vài bước đến chỗ cậu Đằng, hình như cậu cũng thấy được những gì tôi đang thấy nên đã vội đứng dậy. Tôi cùng cậu mỗi người vịn một bên vai cô bé Xuyến, chuẩn bị sẵn tâm thế để chạy bất cứ lúc nào. 

Và rồi, đâu đó trong bụi chuối gần nhất, một người đàn ông phóng ra như bay, chạy theo sau là một người phụ nữ vừa khóc vừa gọi: “Xuyến ơi, cha má đây Xuyến ơi!” 

Vậy là chẳng có gì cả, chỉ là hai người họ luýnh quýnh ôm bé Xuyến vào lòng, một nhà ba người cùng quấn lấy nhau mà khóc. Họ cảm ơn tôi và cậu Đằng vì đã giúp họ tìm được cô bé, sau đó dắt tay nhau về ngôi nhà nhỏ bên mé sông. 

Thật may vì cho đến thời điểm hiện tại, họ vẫn còn nhìn thấy nhau. Thật may vì cậu Đằng vẫn còn ở đây, bên cạnh tôi. 


0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout