Sau khi Nhân ôm xác Trưởng về nhà, người ta chẳng còn câu nệ người hợp tuổi hay khắc tuổi, người thân hay không thân, người thường xuyên hay không thường xuyên làm những việc tế lễ nữa. Mọi người cứ thế bảo nhau mang nước lá thơm, mang áo quần và những thứ cần thiết cho việc tẩm liệm vào phòng của Trưởng rồi để Nhân tự tay làm hết mọi việc.
Nhân lặng lẽ lau người, thay quần áo cho Trưởng. Suốt quá trình ấy, cậu không nói không rằng cũng chẳng rơi một giọt nước mắt. Kể cả khi ông bác họ nhà Trưởng quay lại, ồn ào giục mọi người mang cái khăn mặt trắng mới vào để phủ lên mặt Trưởng, Nhân cũng chỉ sững sờ, ngơ ngác một chút rồi tự tay phủ khăn cho Trưởng. Mấy bác, mấy thím đứng ngoài cửa nhìn vào đều sụt sùi thương cảm. Mắt ai nấy đều đỏ hoe, rưng rưng nước.
Tiếng gà gáy sáng râm ran khắp làng. Tiếng chó tru xa xa não nề khiến rạng đông cũng như thể thêm phần ảm đạm. Trong khi mọi người hối hả giục giã, phân chia nhau làm việc này việc nọ, trong khi người thân của Trưởng vây lấy ông Đương, bà Diên, vừa khóc thương vừa an ủi ông bà, Nhân cứ ngồi dựa lưng vào cạnh chiếc giường buông màn trắng, nơi Trưởng đang nằm im lìm. Con chó đen cũng ủ rũ nằm ngay bên cạnh cậu, đầu dụi vào đùi cậu, như là an ủi, cũng như là tìm kiếm sự an ủi.
Ông bác họ nhà Trưởng dẫn đầu một nhóm người bao gồm thầy cúng và mấy người họ hàng khác đi vào phòng. Thầy cúng chỉ đạo mọi người bày biện chiếc bàn nhỏ làm bàn thờ. Họ đổ đầy gạo tẻ vào một một chiếc cốc để làm bát hương. Họ bày bát cơm lồng còn đang toả ra hơi nóng lên bàn, rồi dùng đôi đũa tre được vót bông một đầu cắm thẳng đứng trên bát cơm, giữ quả trứng luộc nằm yên chính giữa.
Khói hương nghi ngút xông vào mắt Nhân, bài khấn não nề chui vào tai Nhân. Hai thứ kết hợp với nhau, ép giọt nước mắt trong veo tràn ra rồi rơi xuống vỡ tan trên mu bàn tay mảnh dẻ, xanh xao của cậu. Con chó đen rón rén thè lưỡi liếm đi giọt nước mắt. Nhân vô thức cúi đầu nhìn, bấy giờ mới phát hiện hai bàn tay mình đều đang run.
Cậu cảm thấy ngột ngạt, không thể nào thở nổi nhưng lại không muốn rời khỏi phòng bởi không muốn cách Trưởng quá xa. Khói làm mắt cậu cay xè nhưng cậu lại không muốn nhắm lại bởi còn muốn nhìn Trưởng thêm vài giây phút nữa. Nhân vẫn đang tự huyễn hoặc rằng biết đâu lại có một phép màu, biết đâu, chỉ cần cậu không rời khỏi, chỉ cần cậu không chớp mắt thì sẽ thấy Trưởng tung chăn ngồi dậy, cười khanh khách với cậu như thường ngày.
Nhân ngồi thẫn thờ, ánh nhìn xuyên qua màn, chạm vào lớp khăn trắng phủ trên mặt Trưởng suốt mấy tiếng đồng hồ. Ai nói gì, làm gì, cậu cũng như không hay không biết. Mãi đến khi người ta vén màn lên, chuẩn bị làm lễ nhập quan cho Trưởng, cậu mới như choàng tỉnh.
“Trưởng ơi… Trưởng ơi! Đừng mà! Đừng mà! Trưởng ơi…”
Nhân cất giọng khàn đặc gọi từng tiếng nức nở nghẹn ngào khiến mọi người xung quanh đều rưng rưng nước mắt. Cậu lập cập bám vào thành giường, run rẩy với tay muốn giữ lấy Trưởng. Nước mắt của cậu cứ thế tuôn rơi lã chã. Vừa bất lực, sợ hãi lại vừa xót xa, đau đớn.
Nhân đã từng chứng kiến cảnh người ta đặt bà cậu vào trong cỗ quan tài lạnh lẽo và chật chội, kê giữa gian nhà ọp ẹp, đơn sơ. Sau khi nắp quan tài được đóng lại, những chiếc đinh nhọn hoắt ghim chặt, thế giới của cậu đã vĩnh viễn thiếu đi người thân duy nhất, trong trái tim cậu cũng xuất hiện một khoảng trống thênh thang.
Nhân sợ chiếc quan tài, sợ “người nhà” của cậu bị nhốt vào không gian bí bách và ngột ngạt ấy. Từ trước tới giờ, Trưởng luôn phóng khoáng, luôn thích tự tại nên hẳn sẽ rất ghét khi bị bó buộc. Nhân cứ nghĩ miên man, rồi giơ tay giữ chặt Trưởng khiến mấy người ở đó xúc động nhưng cũng tỏ vẻ không hài lòng.
“Nào nào, thằng cháu này mày tránh ra cho chúng tao làm! Hai ông kéo nó ra ngoài đi đã không nước mắt rơi vào đây bây giờ!” Những người đàn ông quen lo việc ma chay vững chân vững tay làm những việc cần làm, lại có thời gian nhắc nhau kéo những người đang khóc lóc ra kẻo nước mắt dính vào người chết.
“Nước mắt của thằng bé kia dính vào từ đêm rồi còn đâu.”
Có ai đó nhỏ giọng nói khiến mấy bác trai và cả thầy cúng đều sững sờ bối rối. Sau đó, có lẽ vì không biết phải làm sao, họ liếc nhìn nhau rồi ngầm thống nhất im lặng làm tiếp những việc phải làm.
Nhân khóc suốt từ lúc người ta bắt đầu làm lễ nhập quan. Cậu khóc đến chết lặng. Đến khi nước mắt không chảy ra được nữa, cậu đờ đẫn, ngồi thần người bên cạnh cỗ áo quan khói hương nghi ngút suốt một ngày đêm. Không biết bao nhiêu người đến gần khuyên cậu đi ăn chút cơm, uống chút nước hay nằm chợp mắt một lúc mà cậu cứ trơ ra như gỗ đá, không hề phản ứng, như thể không còn tri giác.
Trời sáng. Khi người ta có thể nhìn rõ mọi thứ bên trong chiếc rạp đám tang với hai màu đen vàng nhợt nhạt, u buồn mà không cần ánh điện, khi ánh nắng bắt đầu làm cho không khí ấm nóng lên, người thân, họ hàng nhà Trưởng cũng rục rịch chuẩn bị đưa cậu trở về với đất mẹ.
Người thợ kèn rên rỉ đọc bài ca kèn não nề. Bác trưởng họ ngậm ngùi đọc điếu văn khiến nhiều người khóc oà nức nở. Mấy bác gái vừa chấm nước mắt vừa sắp sửa những túi tiền vàng, hương hoa. Năm sáu người thanh niên đi vào đứng hai bên quan tài. Tiếng ai đó giục nhau cầm cờ tang, cầm di ảnh. Tất cả mọi thứ đều khiến Nhân bất giác hoảng hốt. Cậu run rẩy chống tay đứng dậy rồi lao ra, giật lấy tấm di ảnh với nụ cười rạng rỡ của Trưởng trên tay cậu em họ của Trưởng rồi ôm khư khư trong tay.
Có người chú họ hàng xa nhà Trưởng không hài lòng khi thấy có một người lạ lao vào giành giật như thể đang phá đám. Chú đó lớn tiếng quát tháo mãi không thôi. Nhân lại cứ ngẩn người, chẳng nói câu gì để giải thích cho mình khiến người chú kia càng tức tối. Phải đến khi ông bác trưởng họ nhà Trưởng đứng ra dàn xếp, chú đó mới vừa lụng bụng chửi mắng vừa bỏ ra ngoài.
Nhân ngơ ngẩn ôm di ảnh của Trưởng, thất thểu bước từng bước ra cánh đồng làng, đi về phía nghĩa địa. Phía trước cậu có một đám trẻ con tung tăng cầm cờ tang hoặc khiêng vòng hoa chạy trước. Phía sau cậu, đoàn người đi chầm chậm, sụt sịt khóc thương, mấy người thợ kèn cũng thổi làn điệu nhạc tang não nề, thổn thức.
Nhân lại không khóc lóc, không nói năng. Đến tận khi lễ an táng đã hoàn tất, đoàn người đưa tang đã lục tục quay về hết, cậu vẫn ngồi bệt, ngẩn người bên nấm đất mới đắp xong. Có người muốn kéo tấm di ảnh trong tay Nhân ra để rước hồn người chết về nhà mà không làm sao kéo được. Cậu túm chặt đến mức hai bàn tay tái xanh nổi những đường gân.
“Thôi, cứ để nó cầm! Ở nhà tôi còn ảnh khác. Đi về thôi!” Cuối cùng, bà Diên thều thào cất giọng khi thấy mấy người giằng co mãi không xong. Giọng bà nhẹ tênh như gió thoảng qua trời, như thể chỉ đang nói đến chuyện cho ai đó mớ rau, con cá, như thể đã kịp chấp nhận sự thật đau thương là con trai bà đã không còn nữa.
“Ừ, để thằng cháu này cầm về sau cũng được! Về thôi còn khách khứa ở nhà!” Ông Đương cũng buồn bã nói rồi đỡ bà Diên bước từng bước xiêu vẹo trên con đường đắp đất dẫn từ nghĩa trang ra ngoài đường cái.
Không ai hiểu vì sao ông Đương bà Diên lại dễ dàng đồng ý để Nhân ôm khư khư tấm di ảnh của con trai mình. Mọi người càng không hiểu tại sao ông bà lại chuẩn bị dư cả ảnh thờ cho Trưởng. Thế nhưng cũng chẳng ai thắc mắc gì nhiều bởi người ta còn bận để tâm trí vào mấy việc khách khứa, cỗ bàn, lễ lạt khác.
Mọi người đã đi hết. Giữa nghĩa trang vắng vẻ, chỉ còn mỗi Nhân ngồi bên nấm mộ mới đắp của Trưởng. Trông cậu còn lẻ loi và cô độc hơn bất cứ người thân, người quen hay họ hàng nào nhà Trưởng bước ra từ đám tang. Cậu cứ ngẩn người nhìn vào khoảng không bao la trên đầu, tựa như giữa lưng chừng trời có Trưởng.
Trời nắng nóng như thể có vị thiên tiên nào đó đánh đổ hũ mật mía vàng óng, vừa bắc ra khỏi bếp trời xuống nhân gian ồn ã. Nhân nhắm mắt, cố ép mình tưởng tượng ra nét cười của Trưởng. Rồi cậu chợt hoảng hốt mở bừng mắt bởi ngay lúc ấy, cậu không nhớ nổi khuôn mặt Trưởng trông như thế nào. Cậu hấp tấp lật tấm di ảnh đang ôm chặt trong lòng ra nhìn ngắm. Thấy nụ cười rạng rỡ hơn cả ánh nắng trên gương mặt khôi ngô, cậu chợt thấy sống mũi cay xè, hai mắt cũng thoáng mờ đi vì có màng nước dâng đầy. Nhân khóc oà lên. Nức nở, đau thương.
Nhân khóc rất lâu. Khóc đến khi nước mắt không còn chảy ra được nữa, đến khi những cánh chim bay mỏi đã hối hả giục nhau quay về tổ ấm, khi ráng chiều đã được phủ lớp màu đỏ cam rực rỡ ở khoảng trời phía tây rộng thênh thang, khi từ mái bếp nhà ai, làn khói lam chiều hiếm hoi đã lờ lững bay lên, hoà vào trời mây bao la, cậu mới run rẩy đứng lên.
Nhân lảo đảo chực ngã. Trong tai cậu bỗng như có tiếng kèn trống não nề vang vọng. Trước mắt cậu bỗng như thể sáng loá bởi những vòng hoa trắng thương tâm bày ra la liệt. Cậu như nghe thấy có tiếng khóc than não nề, tiếng kêu gào nức nở đâu đó, rất gần lại rất xa xôi. Cậu chợt nhớ đến những đôi mắt đỏ hoe ngập nước, những ánh nhìn đau đớn, xót xa, những mái tóc rối bù, những dáng người tiều tuỵ vì buồn đau.
“Nhân, đi về nhà ngay!”
“Sao mà mày cứng đầu thế hả?”
Dường như cậu còn nghe thấy cả giọng Trưởng đang tức giận quát nạt mình ở phía sau. Có vẻ trong giọng nói đó còn hàm chứa cả nỗi buồn bã, nỗi sợ hãi, nỗi bất lực, nỗi đau lòng nữa. Bởi Nhân thấy giọng nói của Trưởng run rẩy trong làn gió mát rượi thổi xuyên qua cánh đồng, qua nghĩa trang quạnh quẽ.
“Trưởng ơi!” Nhân đột ngột quay ngoắt người lại, hy vọng tìm thấy Trưởng.
Có điều, cơ thể vốn đã gầy gò lại không ăn uống, không nghỉ ngơi suốt mấy ngày liền của cậu không chịu nổi nữa. Còn chưa kịp tìm xem Trưởng đang ở nơi nào, chưa kịp kéo khoé miệng đang héo rũ lên thành một nét cười mừng rỡ, Nhân đã thấy đất trời chao đảo, hai mắt tối sầm, khắp người lạnh buốt. Cậu ngã sụp xuống cạnh ngôi mộ mới đắp, phủ đầy hoa trắng. Trước khi ngất lịm, cậu vẫn cố ôm chặt tấm ảnh giữ lại nụ cười rạng rỡ của Trưởng trong tay.
Bình luận
Chưa có bình luận