Tôi có một giấc mơ, giấc mơ về thời thơ ấu đã qua, nói đúng hơn là về khoảng thời gian tươi đẹp khi còn ở bên Tuấn. Đó là một thế giới thần tiên, không có đau đớn và chia ly. Nếu được lựa chọn, tôi mong mình sẽ sống mãi trong thế giới đó, bởi vì khi giấc mơ tan biến, thế giới của tôi cũng sẽ sụp đổ, lụi tàn.
Tôi là con trai út, cũng là con trai duy nhất trong gia đình có bốn chị em. Nhà tôi ba đời làm giáo viên, có lẽ thế mà gia đình tôi đã nuôi dạy con cái rất nghiêm khắc và quy củ. Mỗi ngày, các chị đều phải dậy sớm lúc năm giờ sáng, quét dọn nhà cửa, nấu đồ ăn sáng, pha trà cho cha; tan học không được la cà mà phải về thẳng nhà, có đi đâu cũng phải về nhà trước sáu giờ tối. Nếu chúng tôi phạm lỗi, bất kể trai gái, cha đều phạt rất nặng, khi thì bắt quỳ hàng giờ ở nhà thờ tổ, khi thì quất bằng roi mây. Vì sự nghiêm khắc ấy mà chị em tôi ai cũng rất sợ cha. Đến khi đi lấy chồng, mỗi lần nhắc lại các chị lớn vẫn còn ám ảnh những trận đòn roi của ông.
Mẹ sinh tôi lúc bà tròn bốn mươi tuổi. Nghe nói cha mẹ tôi đã đi chùa cầu mong dữ lắm mới sinh được tôi, một cậu quý tử sau này nối dõi tông đường. Vì là con trai duy nhất trong nhà nên cha mẹ vô cùng kỳ vọng vào tôi. Tiếc là tôi đã phụ lòng họ.
Năm ngày sau khi tôi chào đời, Tuấn cũng đòi ra theo. Chúng tôi đã ở bên nhau từ trong bụng mẹ. Mẹ tôi và mẹ Tuấn thân nhau như chị em ruột. Hai bà mẹ ngầm hẹn với nhau nếu sinh một trai một gái thì sẽ làm sui gia, nhưng chúng tôi đều là trai nên họ muốn chúng tôi làm bạn tốt. Quả nhiên, chúng tôi thân nhau vượt cả sự mong đợi. Kể từ khi nhận biết thế giới xung quanh, chúng tôi đã nhìn thấy nhau, giống như có duyên từ kiếp trước, vừa mới chuyển kiếp đã tìm ra định mệnh của đời mình vậy. Thế giới của tôi có Tuấn và ngược lại, thế giới có Tuấn không thể thiếu tôi. Cứ thế, chúng tôi cùng nhau lớn lên, cùng nhau trải qua khoảng thời gian vô ưu vô lo với biết bao kỷ niệm đẹp.
Tuy nhà tôi ở dưới quê nhưng cũng thuộc hàng khá giả. Vì là con trai một, ngay từ nhỏ, tôi không phải động tay động chân vào việc gì. Trái lại, nhà Tuấn rất nghèo. Tía má hắn làm nông dân, quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Ban ngày hai người đi làm ruộng, gửi Tuấn ở nhà tôi. Chúng tôi lớn lên cùng nhau như anh em một nhà, ăn cùng ăn, ngủ cùng ngủ. Đặc biệt, chúng tôi đều lớn lên trong những khúc hát ru ngọt ngào của bà nội. Trong nhà, bà là người thương tôi nhất. Bất kể tôi có phạm lỗi lầm nghiêm trọng cỡ nào, bị cha đánh phạt ra sao, chỉ cần bà ho nhẹ một tiếng là cha buộc phải dừng tay. Bà nội là người mẹ thứ hai, là bà tiên trong truyện cổ tích, là cả bầu trời của tôi.
Lớn hơn một chút, chúng tôi cùng nhau vào lớp Một ở trường làng. Mỗi ngày, chúng tôi phải vượt quãng đường ba, bốn cây số mới tới được trường học. Ngày xưa không có đường nhựa như bây giờ, khi mùa mưa tới, đường đến trường càng lầy lội. Trên đường đi có một con mương lớn. Mưa xuống, con mương ngập đầy nước. Bọn con trai phải cõng bọn con gái lội qua con mương để đi tiếp. Thay vì cõng bọn con gái thì Tuấn cõng tôi. Da tôi rất dễ bị dị ứng, chỉ cần ngâm nước dơ lâu một chút là sẽ ngứa ngáy, nổi mẩn trông thảm vô cùng. Mặc kệ bị chúng bạn trêu chọc, Tuấn đã cõng tôi trong suốt hai năm đầu cấp Một ở trường làng. Đến lớp Ba thì đường sá được sửa lại nên chúng tôi đi học đỡ vất vả hơn, chỉ có quãng đường là chẳng rút ngắn được chút nào.
Nói là trường học cho sang chứ thực ra trường chỉ có mấy lớp học. Phòng ốc cũ kĩ, xập xệ. Những bức tường ẩm mốc bám đầy rêu phong. Rêu mọc dày, sậm màu thành đủ mọi hình dạng. Sàn lớp học không lót gạch. Bàn ghế gỗ lâu ngày đen xì, có cái bị mọt ăn sứt lỗ chỗ.
Mỗi khi trời mưa, chúng tôi càng khốn đốn, dưới chân thì nước ngập, trần nhà dột hết chỗ nọ tới chỗ kia. Những đứa có chỗ ngồi bị dột phải chạy sang chỗ khô ráo hơn để không bị ướt, cả bọn ngồi san sát bên nhau nghe thầy cô giảng bài. Tôi và Tuấn ngồi cùng bàn, những lúc như vậy, hai đứa có dịp nhích gần nhau hơn. Hai bàn tay chạm vào nhau thật khẽ, trái tim rạo rực những cảm xúc khó tả. Nhưng khi ấy tôi chỉ là một đứa trẻ, không thể cắt nghĩa được cảm giác kì lạ trong lòng. Tôi tò mò chẳng biết Tuấn có giống mình không. Khi quay sang, thấy hắn cười, tâm trí tôi càng rối bời, rồi tôi cũng cười với hắn. Trời mưa lạnh mà lòng tôi ấm lạ.
Hồi nhỏ Tuấn rất còi cọc, thậm chí còn thấp hơn cả tôi. Nhà hắn nghèo, tía hắn không lo làm ăn, tối ngày rượu chè. Mỗi lần say xỉn chú đi gây sự khắp nơi, ngoài đường thì đánh nhau với xóm giềng, về nhà lại trút giận lên vợ con. Người Tuấn lúc nào cũng đầy vết bầm. Mặc dù phần lớn hắn đều ở nhà tôi, ăn cơm chung, nhưng chắc thường xuyên bị bạo hành nên hắn lớn không nổi. Ở nhà đã đành, lên trường Tuấn cũng bị bắt nạt. Người ta ghét tía hắn nên ghét lây sang hắn. Những khi ấy, tôi trở thành vệ sĩ nhí bất đắc dĩ của hắn. Mặc dù tôi không cao to gì lắm, nhưng đứa nào dám ức hiếp Tuấn là tôi liều mạng với nó ngay.
Năm lớp Ba, nhỏ Hoa bị mất một cây viết. Cây viết máy màu xanh lục trông rất đẹp. Sáng hôm đó, nó lục tìm khắp nơi từ trong cặp đến hộc bàn nhưng chẳng thấy đâu, thế là nó khóc bù lu bù loa cả lên. Mọi ánh mắt bỗng dưng đổ dồn lên người Tuấn. Thằng Luân lên tiếng:
“Thằng Tuấn là đứa đáng nghi nhất. Mấy bữa trước tao thấy nó cứ nhìn chăm chăm cây viết của nhỏ Hoa.”
Tuấn la lớn thanh minh:
“Tao không có!”
“Có hay không xét cặp thì biết!”
Thằng Luân vừa dứt câu, cả lớp nhao nhao đồng tình. Một đứa bước lên tính lấy cặp của Tuấn, tôi tức tối chắn ngang không cho nó đụng vào:
“Tuấn không có ăn cắp. Cấm tụi bây nói bậy! Có gì đợi cô vô.”
“Không ăn cắp thì mắc gì sợ?
Tôi mím chặt môi, hai mắt nóng rực, tức đến độ toàn thân run lên. Mấy đứa kia thấy tôi sắp khóc vì giận thì cũng hơi chần chừ. Lúc này, Tuấn tức tối đứng dậy, cầm lấy cái cặp quăng thẳng vào người bọn chúng:
“Tụi bây ngon thì xét đi!”
Tôi uất ức la to, nước đã tròng trành nơi khoé mắt.
“Tụi nó làm vậy là sỉ nhục mày đó!”
“Nếu không tìm thấy cây viết thì tụi bây phải quỳ xuống xin lỗi tao!”
Thấy Tuấn mạnh miệng, tụi thằng Luân nhất thời chùn tay. Ngần ngừ lúc lâu, một đứa cũng tiến tới, mở cặp Tuấn ra. Nó lục lọi đủ các ngăn, không để sót bất cứ chỗ nào. Trong lúc tôi tự tin rằng bọn chúng sẽ không tìm được gì thì một đứa la to:
“Tìm được rồi!”
Nó quay sang nhỏ Hoa, chìa cây viết máy màu xanh lục vừa tìm thấy trong hộp bút của Tuấn ra, hỏi:
“Có phải viết của mày không?”
Nhỏ Hoa đi lại gần, nhìn cây viết một lúc rồi gật đầu. Bọn thằng Luân được dịp bĩu môi khinh bỉ:
“Vậy mà mạnh miệng lắm. Thì ra cũng là phường trộm cắp!”
Tuấn nổi giận xông lên:
“Trả cây viết đây! Cây viết đó là của tao!”
“Của mày? Rõ ràng là của nhỏ Hoa. Đúng là vừa ăn cắp vừa la làng.”
Tự dưng trong cặp của Tuấn lại có cây viết của nhỏ Hoa, tôi không biết phải bênh vực Tuấn bằng cách nào nữa. Nhưng Tuấn như chịu ấm ức dữ lắm, cứ chối đây đẩy. Chứng cứ quá rõ ràng, bọn thằng Luân dĩ nhiên không tin hắn, càng cười lớn chế nhạo. Cuối cùng, không nhịn được, Tuấn lao lên đánh bọn thằng Luân túi bụi trước sự ngỡ ngàng của tôi. Bọn chúng có sáu, bảy tên, một thằng gầy nhom như Tuấn làm sao đánh lại. Tôi đứng ngoài can ngăn không được, đành nhảy vào đánh phụ. Một thằng suy dinh dưỡng, một thằng công tử bột mà đòi đi đánh nhau, phút chốc, hai đứa tôi đã bị dần cho nhừ tử. Đến khi cô giáo vào lớp thì trận hỗn chiến mới ngừng lại.
Trên đường về nhà, hai mắt Tuấn đỏ ngầu vì uất ức. Tôi im lặng đi bên cạnh, nhìn hắn mà thương vô cùng. Mặc dù cây viết ở trong cặp của Tuấn, nhỏ Hoa cũng nhận là viết của nó, nhưng từ trong thâm tâm, tôi vẫn tin Tuấn không nói dối. Tôi đặt tay lên bờ vai nhỏ thó vẫn còn đang run rẩy của hắn, muốn an ủi nhưng chẳng nói thành lời. Tuấn nghiêng vai né sang một bên:
“Cả mày cũng cho rằng tao ăn cắp chứ gì?”
“Không... không có. Tao tin mày mà... Nhưng...”
Chữ “nhưng” của tôi giống như mũi tên cắm vào trái tim non nớt của Tuấn. Có điều, tôi không thích mọi chuyện mập mờ nên đánh liều hỏi hắn, dù biết rằng hắn sẽ buồn và giận:
“Cây viết đó mắc lắm, mày lấy ở đâu ra?”
Quả đúng như dự đoán, Tuấn không trả lời tôi mà đi thẳng một mạch về nhà.
Bình luận
Chưa có bình luận