KHAI CĂN




Từ lúc xuông nam khẩn hoang, khai ấp, lập làng trên nền của nơi rừng thiêng, nước độc, không thiếu những câu chuyện quỷ dị, ma mị như ma da kéo người, đoạt hồn, nhập xác, luyện bùa, chế ngãi. Do muốn tránh những đều không hay, mỗi làng thường lập miễu để cúng kiến, gọi người được phụng thờ trong miễu là người giữ miễu hay chúa xứ để trấn làng, giữ đất. Song hành với những chuyện tâm linh trên xứ U Minh là những thầy pháp, thầy bùa có quyền phép hộ pháp, đuổi tà, hoặc luyện ngải, sữ dụng tà thuật. Trong làng Nọc Rùa, có một thầy pháp như thế. Không ai không biết đến ông bảy cốt - một thầy pháp cao tay trong làng, chuyên giúp đỡ dân làng đuổi tà, cầu siêu, cứu người bị ma dẫn đường, lạc lối. Ông ấy sống chung với một thằng nhỏ tên khương, là học trò được ông nhận nuôi từ nhỏ, hai người sống trong mái nhà tranh rách nát kế bên bờ sông cái. Muốn đến được căn nhà tranh của hai người họ rất khó khăn, một là đi xuồng băng qua vùng nước sâu, rồi cập theo mé sông cái, hai là phải băng qua đồng hoang, ruộng xìn để đến được nơi đó.

Tối ấy, trời như bị nén lại trong một cái hũ mực. Không trăng, không sao, chỉ có bóng tối đặc quánh phủ lên cả cánh đồng. Gió thổi rêu rít qua những bụi tre, cỏ năng, nghe như tiếng ai rên rỉ trong đêm sâu. Tiếng ve vẫn còn vang vọng từ mấy lùm cây bên mương nước, thi thoảng xen lẫn tiếng bìm bịp kêu thảng thốt ở bìa ruộng. Không khí oi nồng, hầm hập như trước một trận mưa lớn, nhưng lại có cái lạnh âm ẩm len lỏi từ dưới đất bốc lên, khiến người ta rợn gáy mà chẳng rõ vì sao. Từ phía xa, ánh đèn leo lét lắc lư, nhấp nháy từng chập như con đom đóm bị gió đánh tơi tả. Có ba người đàn ông, dáng vẻ lam lũ, lưng áo thấm đẫm mồ hôi và bùn đất, đang lội qua con đê hẹp giữa ruộng để tiến về căn chòi của ông Bảy Cốt. Họ mặc áo bà ba sậm màu, quần ống thấp ống cao, chân dính đầy xìn non, dẻo quẹo vì vừa lội qua mấy khoảnh ruộng nước ngập ngang ống chân. Một người cầm đèn măng xông, hai người còn lại tay run, mặt mày thất thần, chẳng ai nói với ai câu nào, chỉ lầm lũi bước đi trong đêm tối như đang mang theo một thứ gì nặng trĩu trong lòng. Khi tới trước căn chòi tranh nằm khuất sau hàng dừa nước, người đi đầu hít một hơi thật sâu, đưa tay lên gõ cửa ba cái dứt khoát nhưng mang theo vẻ cuống cuồng. Tiếng gõ vang lên trong đêm nghe rắn rỏi, khiến mấy con chim ngủ trên nóc nhà cũng phải bay vút lên kêu quang quác.

– Thầy Bảy có nhà không?

Giọng người đàn ông lạc đi vì mệt và lo. Từ trong nhà, một giọng khàn khàn nhưng không lẫn vào đâu được vọng ra, ngắn gọn:

– Ai đó?

– Con, Tư Ếch.

Nghe đến cái tên ấy, ông Bảy Cốt đang ngồi vái nhang trước bàn thờ nhỏ cũng khựng lại. Tay ông chao nhẹ, tàn nhang rớt xuống đất. Ông chống tay đứng dậy, bước tới mở cửa. Ánh đèn măng xông chiếu lên gương mặt khắc khổ của ông. Cặp chân mày rậm chau lại ngay khi nhìn thấy sắc mặt của ba người đứng ngoài sân – mặt mày tái mét, môi thâm lại, mắt mở trừng hoảng sợ như vừa thấy quỷ. Ông Bảy thở ra một hơi, rồi khẽ lắc đầu:

– Tư Ếch à… khuya rồi mầy còn đến đây làm gì?

Ông hỏi, giọng không trách móc, vì ông biết có chuyện gì xảy ra. Những người đến tìm ông vào giờ này, với bộ dạng như vầy… chỉ có thể là chuyện đó.

– Vợ con… lên cơn dữ lắm ông Bảy. Cặp mắt trắng dã, tay chân quào cào như người điên. Nói tiếng gì kỳ lắm, không phải giọng bả. Như có ai nhập vô vậy đó… Con… con không biết tính sao nữa. Xin ông Bảy qua coi giúp con, làm ơn ông cứu vợ con…

Tư Ếch vừa nói, vừa sụp xuống một bên, giọng lạc hẳn đi, khô khốc như người nuốt trúng tro. Mặt ông ta giàn giụa mồ hôi, bàn tay nắm chặt tà áo. Hai người đi cùng chỉ biết cúi đầu, gương mặt thẫn thờ không thốt nên lời. Ông Bảy nhìn cả ba một lượt. Không cần họ kể thêm, ông cũng hình dung được chuyện gì đang diễn ra. Ông quay lưng vào nhà, chậm rãi đến bên cái tủ gỗ cũ kỹ, mở ra lấy chiếc tay nải bọc vải đỏ. Trong đó đựng bùa, gương, nhang, trầm, bộ bài Tây đã xỉn màu – vật bất ly thân của ông khi đi hành đạo. Lấy xong, ông khoác tay nải lên vai, không quên quay sang dặn dò thằng Khương – lúc này đang ngồi co ro bên bếp lửa, mắt mở thao láo:

– Ở yên trong nhà. Đừng có bước ra ngoài, nghe chưa. Tao về liền.

Khương gật đầu, cổ họng nghẹn lại. Cậu thấy rõ bóng ông Bảy lững thững bước ra cửa, tay cầm cây đèn trúc bách, ánh sáng hắt lên gương mặt già nua đầy nếp nhăn mà bỗng chốc toát ra sự nghiêm trọng đến rợn người. Ngoài kia, tiếng gió vẫn rít lên từng hồi, mang theo hơi lạnh lạ thường lùa vào tận tim.

Mặc dù ở với ông Bảy từ nhỏ, một thầy pháp có tiếng trong làng, nhưng nó chưa bao giờ tin vào chuyện ma quỷ hay vong linh là có thật trên đời. Với nó, tất cả những chuyện người ta hay rỉ tai nhau – nào là hồn người chết chưa siêu thoát, nào là bóng trắng bóng đen hiện về giữa đêm – đều là chuyện bịa đặt để hù người hoặc dọa trẻ con. Nó nghĩ đơn giản, nếu ma thật sự có thật thì cha mẹ nó – những người đã khuất từ lúc nó còn đỏ hỏn – đã phải hiện hồn về một lần để nó được thấy mặt, được nghe tiếng gọi "con ơi" một lần trong đời. Nhưng không. Từ ngày lọt lòng tới giờ, chưa khi nào nó thấy gì cả ngoài những giấc mơ lờ mờ, nhạt nhòa như khói trầm. Chẳng một bóng người nào từ cõi âm tìm về, cũng chẳng có điềm lạ nào cho thấy họ còn ở đâu đó quanh nó. Ông Bảy – người mà cả xóm gọi là "thầy bùa, thầy pháp" – từng nói với nó rằng: "Muốn thấy ma, thấy quỷ hay linh hồn người chết, phải là người có căn âm. Không có căn, có số thì đứng chỗ nào cũng như đứng trước gió, không thấy gì đâu!" Ông nói vậy, mà nó chẳng buồn tin. Trong mắt nó, ông Bảy chẳng qua chỉ là một ông già mê tín, sống một mình trong căn chòi giữa đồng hoang, suốt ngày loay hoay với mấy thứ bùa vẽ bằng máu gà, gạo nếp với tro than, rồi đốt trầm, tụng chú những câu kỳ lạ nghe mà nổi da gà. Ông hay đi bắt ma, trừ tà cho người trong vùng, nhưng lạ cái là chẳng bao giờ cho nó đi theo dù chỉ một lần. Nó nhiều lần năn nỉ, van lạy, nhưng ông chỉ xua tay, bảo: “Chưa tới số, đi theo chỉ rước họa.” Nó nghe mà tức anh ách trong bụng, nghĩ thầm: "Ông bày trò hù mình chớ gì!" Đêm hôm đó, trời lặng gió, chỉ có tiếng rì rào của cánh đồng xa vọng lại, tiếng lá tre quét vào mái tranh nghe xào xạc như có ai đang rón rén đi quanh nhà. Khương nằm co ro trên chiếc võng treo giữa hai cây cột, ánh lửa từ bếp than đã lụi gần tàn. Trong tiếng gió rếu rít, cậu dần chìm vào giấc ngủ, hơi thở nhẹ dần. Không biết cậu đã ngủ được bao lâu, chỉ nhớ lúc mở mắt ra thì trời đã tờ mờ sáng. Gà gáy đâu đó từ mé sông vọng về. Rồi tiếng gõ cửa vang lên kèm theo tiếng gọi quen thuộc, khàn khàn của ông Bảy:

– Khương, mở cửa!

Khương dụi mắt, lim dim bước ra mở cửa. Cánh cửa tre vừa hé, một luồng hơi lạnh ập vào khiến cậu rùng mình. Trước mặt là ông Bảy – áo quần ướt đẫm sương đêm, chân dính đầy xìn bùn, trông như người vừa lội ruộng, đi qua rừng rẫy nào về. Ông lặng lẽ bước vào nhà, tay vẫn siết chặt tay nải đựng đồ pháp. Khương hỏi, giọng còn ngái ngủ:

– Có chuyện gì xảy ra vậy thầy?

Ông Bảy không trả lời ngay. Ông đặt tay nải xuống, gỡ lớp vải đỏ, xếp lại cẩn thận từng món đồ – gương bát quái, những lá bùa vẽ đủ các dòng chữ có hình như dun đất, nhanh thơm, trâm hương, bộ bài đã ố vàng – rồi mới chậm rãi nói:

– Một con ma đói nhập xác. Nhưng... qua rồi. Không sao nữa.

Giọng ông đều đều như kể lại chuyện thường ngày, nhưng nghe vẫn rờn rợn. Khương chau mày, lộ vẻ không tin. Cậu nhún vai, định nói gì đó nhưng ông Bảy đã khoát tay, không giải thích thêm. Ông mệt mỏi bước về phía giường tre, chiếc giường phát ra tiếng cọt kẹt khi ông đặt lưng nằm xuống, cây mùng vẫn còn cuộn trên nóc giường chưa thả xuống. Trước khi nhắm mắt, ông nhắc một câu, không lớn không nhỏ, nhưng đủ để Khương nghe mà lạnh xương sống:

– Sắp tới rằm tháng bảy… buổi tối mầy đừng có đi lung tung… Nhất là chỗ nào có miễu, có cây cổ thụ… Kẻo gặp chuyện không hay.

Khương im bặt. Trong đầu vẫn còn đọng lại lời ông, cùng hình ảnh ông Bảy bước vào nhà với bộ đồ ướt đẫm và đôi chân dính đầy bùn lạnh. Lúc ấy, dù không muốn tin, nhưng trong lòng cậu đã bắt đầu có chút gì đó rung lên – như một chiếc lá non bị gió đầu mùa lay nhẹ… mà không rõ đó là gió hay là hơi lạnh từ cõi khác thổi về.

Dù nữa tin nữa ngờ, nhưng thằng khương cũng bỏ những lời nói của ông bảy ra ngoài tai mình. Đêm rằm tháng Bảy, trời Nọc Rùa bất chợt trở gió dữ dội. Gió từ phía rừng U Minh thổi về từng luồng rít lạnh như rắn bò trên da thịt, cuốn theo mùi ngai ngái của bùn, của lá mục và hơi nước tù đọng. Trên đầu, mây vần vũ cuộn tròn như cơn giận dữ của trời đất, từng đám đen đặc tụ lại, chực chờ đổ mưa, giăng kín hết trăng sao. Cả khoảng trời như nhuốm màu tang tóc. Lúc ấy, Ba Khương đang lom khom lội bộ bì bõm trong con lạch nhỏ dẫn ra bưng Đá Đen, chiếc lờ tre cũ kỹ đeo lủng lẳng trên vai kêu cọt kẹt theo từng nhịp bước. Nó định bụng ra coi cá có dính lờ không, dù bụng đã thấy lạnh lạnh. Từ lúc còn nhỏ xíu, nó đã rành chuyện mò cua bắt cá hơn cả người lớn. Mẹ nó mất từ hồi nó còn đỏ hỏn, cha thì chẳng ai biết là ai, nghe đâu là người đi ghe bị ma dẫn đường mất tích hơn chục năm rồi. Nó được ông bảy cốt – thầy pháp trong làng Nọc Rùa nhận nuôi đến nay, ông bảy thì hay đi trừ tà, còn nó thì hay đi mò cua bắt cá ngoài bưng để hai thầy trò có cái ăn, ở chung với ông bảy nên người trong làng cũng hay đồn rằng thằng Khương cũng có căn nhìn thấy được ma quỷ, vong linh hiện về.

Con đường ra bưng phải đi ngang miễu cổ – nơi người ta đồn là linh lắm, thiêng lắm, nhưng cũng dữ dằn không kém. Miễu nằm chơ vơ giữa cánh đồng hoang sình lầy, cỏ tranh mọc um tùm tới tận mái, rễ cây ăn xuyên vách gỗ. Mái ngói phủ đầy rêu xanh, vách ván long lở lỗ chỗ như da người già. Nơi đó, người lớn thường dặn đi dặn lại: “Đừng dòm vô, đừng quay đầu, đừng nói tiếng lớn, đừng chọc ghẹo chốn linh thiêng.” Khương nghe riết cũng quen, vì ngày nào nó chẳng ngang qua. Nhưng đêm nay, chẳng hiểu sao lòng dạ nó cứ bồn chồn, như có ai đi kế bên, dù nó biết chắc chỉ có mình nó trên con đường sình này. Vừa bước ngang qua miễu, một luồng gió ngược lạnh ngắt như băng chặn ngang sống lưng, làm nó nổi da gà. Rồi… một tiếng kèn lạ từ trong miễu vang lên – không phải tiếng kèn đám tang, cũng không giống tiếng kèn cúng đình – mà ré lên the thé, rít rít từng hồi kéo dài như ai đó bị bóp cổ mà vẫn cố thổi. Tiếng kèn ấy không phải từ trên miệng thổi ra, mà như từ dưới lòng đất trồi lên, vọng qua lớp gạch đá, qua thời gian, qua âm dương.

Khương đứng khựng lại như bị đóng đinh tại chỗ. Tay chân tê rần. Mồ hôi lạnh túa ra sau gáy. Từ trong màn khói sương lẩn quẩn quanh miễu, một bóng trắng hiện ra, nhòe mờ như sương sớm, không rõ mặt mũi, chỉ thấy tấm lưng áo dài bạc màu và mái tóc xõa dài quá vai. Rồi một giọng thì thào, như hơi thở ai đó sát ngay bên tai nó, khe khẽ, tha thiết mà rờn rợn:

– Về… về đi… về lẹ đi…

Khương không kịp nghĩ. Chân nó tự động quay lui, cắm đầu chạy, lờ tre rớt lúc nào không hay, giẫm trúng gai mà không thấy đau, mấy bụi rậm quẹt rách tay, rách mặt cũng chẳng dám dừng lại. Gió sau lưng cuộn lên từng cơn, như có ai đuổi theo. Trời đổ mưa lất phất. Lá tre xào xạc, rắn rít trườn trốn. Cả vùng đầm lầy như thức dậy theo từng bước chân nó. Nó chỉ biết chạy… chạy khỏi nơi mà từ lâu dân làng vẫn gọi là "miễu giữ hồn”.

Sáng hôm sau, nó tỉnh dậy trong gian nhà tranh tềnh toàng của mình, mái lá rách bươm để lộ từng khe ánh sáng nhạt nhoà của buổi sáng âm u. Mùi dầu gió hắc lên nồng nặc, cay xộc thẳng vào mũi khiến cậu phải nhăn mặt, rùng mình. Trong cổ họng vẫn còn đọng lại vị tanh của bùn đất, như thể vừa bị nhét cả khúc rễ mục vào họng. Đêm qua nó chạy đến ngất xỉu dọc đường, thấy lâu không về, ông bảy đi tìm, thì thấy nó nằm ở bụi cây gần con rạch rồi vác nó về nhà. Ngoài trời, gió rít qua hàng cây diệp khô xác, vọng vào những tiếng rên rỉ như mèo hoang gọi bạn tình. Bên cạnh  nó, âm thanh cạo trầm khe khẽ vang lên – chậm rãi, đều đều, từng tiếng một như cào vào tai. Khương quay đầu lại, mắt chưa hết mờ mịt thì đã thấy ông Bảy Cốt, dáng người gầy nhom như cây tre ngập mặn, ngồi xếp bằng ngay giữa gian giữa căn chòi. Mùi trầm hương bay lảng vảng, khói tím cuộn lấy gương mặt nhăn nheo của ông, phủ lên cả thân hình ông một lớp mờ ảo như sương ma. Trước mặt ông là một vòng bùa lớn, vẽ bằng máu gà còn tươi và tro than đen nhẻm. Giữa vòng ấy, có những ký hiệu ngoằn ngoèo giống như giun đất bò, chồng chéo lên nhau như mê trận. Ông Bảy cầm nhang trầm, tay run rẩy vẽ thêm những ký hiệu lạ lùng lên mặt đất. Giọng ông vang lên khô khốc, như gió rít qua miệng lu:

 – Hú vía, mày chưa chết nghe Khương… Tao tưởng mày đi rồi. Bị vong nó dắt xác, hên là chưa bị kéo luôn xuống đất lạnh. Tao dặn rồi mà mầy không nghe.

Giọng ông không to, nhưng vang vọng trong căn nhà tranh như tiếng vọng từ dưới lòng đất vọng lên. Ông chẳng nhìn Khương lấy một lần, chỉ chú tâm vào cái vòng bùa như đang cố khóa chặt thứ gì đó còn luẩn quẩn trong căn chòi. Khương nhớ lại tiếng gọi đêm qua, liền buộc miệng hỏi ông Bảy:

– Đêm qua... con nhìn thấy một bóng trắng trong miễu hoang... nó có phải là ma không ?

Ông Bảy sựng lại giây lát, ông quay sang nhìn nó hỏi:

– Nhìn thấy bóng trắng? Vậy mầy có nghe gì nữa không?

– Có. Một gióng nói the thé bên tai bảo con “ về đi”.

Khương nói trong giọng run rẫy nhớ lại đêm qua:

–Bà miễu gọi mày về. Mà bả đâu có hiện ra gọi chơi. Mười mấy năm nay…cái miễu ấy nó im re. Im đến rợn người.

Ông Bảy nói. Khương lồm cồm ngồi dậy, người còn tê cứng như vừa bị nước cuốn qua. Cậu lắp bắp, miệng run run:

– Nó là… là ma thật à?

Ông Bảy ngừng tay, nhìn thẳng vào mắt cậu, ánh mắt sâu thẳm như hố rắn nước.

– Không phải ma. Là hồn giữ miễu. Loại đó… không phải muốn gặp là được gặp đâu. Nó trấn nơi đó lâu đời, giữ cho đất không hóa điên, cây không hóa quỷ, người không hóa thú. Nó không quậy quá, mà phù trợ dân làng nơi đây được bình yên, nên dân làng tôn kính gọi nó là Bà thủ miễu. Nó gọi ai là người đó phải đi. Không cãi được.

Ông thở ra một hơi dài, rút trong áo bà ba màu khói rơm ra một lá bùa cũ kỹ, nhàu nát đến mức gần rách. Mặt giấy bùa ngả màu cháo lòng, nhưng giữa đó là một hình vẽ đỏ thẫm – run rẩy như có con gì nhỏ xíu đang quẫy đạp bên trong. Khương nhìn vào mà cảm thấy trái tim mình cũng đập theo từng nhịp cựa quậy của thứ đỏ thẫm ấy.

– Mày thấy rồi phải không?

Ông hỏi, mắt vẫn dán chặt vào lá bùa. Khương gật đầu, tim nện thình thịch. Nó không chỉ thấy… mà còn nghe. Từng lời thì thầm như hơi thở từ lòng đất, tiếng rên rỉ the thé kéo dài, như giọng ru buồn buồn trong chiều gió rớt. Âm thanh ấy văng vẳng bên tai cậu, dai dẳng và mơ hồ, giống như tiếng trẻ con đang than khóc vọng ra từ lá bùa, khiến cậu nhớ lại tiếng kèn rếu rít như được thổi ra từ một người đang bị bốp cổ mà nó nghe được từ nơi miễu hoang đêm qua.  Dù đã rời khỏi nơi ấy, tiếng kèn ấy vẫn không chịu buông cậu, như một mùi bùn lầy dính mãi nơi da thịt.

Ông Bảy im lặng một lúc lâu. Căn chòi tranh lặng như tờ. Chỉ có tiếng gió rít qua mái lá, len lỏi qua từng kẽ vách thưa, kéo theo mùi bùn non ngai ngái. Khương chưa kịp hỏi thêm điều gì thì ông Bảy đã cúi xuống, cẩn thận lôi ra từ trong tay nải một chiếc hộp gỗ nhỏ. Hộp được buộc bằng sợi chỉ ngũ sắc, cũ mèm, xỉn màu vì khói trầm và thời gian. Ông gỡ nút chỉ, mở nắp. Bên trong lót vải điều, đặt một cây thước gỗ dài chừng hơn một gang tay – là thước Lỗ Ban, khắc đầy chữ Nho, nét mực đã phai mờ theo năm tháng nhưng vẫn ánh lên một màu đỏ sậm như máu khô. Ông nâng cây thước bằng hai tay, như nâng một vật linh thiêng, rồi tiến lại gần Khương. Mặt ông nghiêm lại, ánh mắt sắc như lưỡi dao chẻ cau.

– Nhắm mắt lại. Đừng kháng. Đừng nghĩ. Đừng hỏi.

Khương chưa kịp phản ứng thì cây thước đã được dí thẳng vào giữa trán nó. Nó cảm nhận được gỗ lạnh buốt chậm vào da thịt mình, như vừa được lấy từ mộ phần lên. Một luồng khí lạ luồn dọc sống lưng cậu, làm cả người rùng mình, tóc gáy dựng đứng. Nhưng không hiểu sao… cậu không sợ.

– Từ nay… mày không còn là thằng nhỏ lội bì bõm bắt cá dọc rạch nữa.

Ông Bảy trầm giọng, như đang đọc một lời phán.

– Mày đã mở căn âm. Căn đó vừa mở tối nay. Tao đã ráng khóa, ráng ém… nhưng không cản được nữa rồi. Nó khui bằng máu.

Giọng ông đều đều, nhưng mỗi chữ như gõ vào tim Khương. Nó không hiểu hết, nhưng linh cảm rõ rệt rằng một cánh cửa vô hình vừa mở ra. Một ngưỡng ranh giới nào đó giữa người thường và những kẻ bước vào con đường âm dương đã bị bước qua – và cậu không thể quay đầu. Ngoài sân, gió bấc lại nổi, mây đen vừa tan đã bắt đầu cuộn lại, mưa rơi lất phất hai bên mái tranh, như một cơn giông gió kéo đến muốn đánh sập căn mái tranh nhỏ. Nó cảm được đây không phải gió thường. Đó là thứ gió lành lạnh như được thổi từ rừng U Minh ra, từ đìa lầy, từ những bãi tha ma lâu đời bị rễ cây chằng chịt quấn kín. Rồi một âm thanh vang lên – là tiếng kèn ngậm. Lần này không còn mơ hồ như trước nữa. Nó vang lên rõ mồn một, từng hồi dài, kéo lê lê như tiếng ai rên khóc, như tiếng ai gọi hồn giữa chạng vạng tối.

Khương nín thở. Nhưng nó không còn hoảng hốt. Không còn muốn chạy trốn như khi gặp bóng trắng nơi miễu hoang. Ngược lại, có một điều gì đó trong máu thịt nó đang chuyển động, đang nóng lên. Một luồng khí từ gan bàn chân trào lên đến đỉnh đầu. Như thể… cái thứ gì bị ém trong huyết quản nó lâu nay… giờ đang dậy sóng. Không dữ dội, nhưng kiên quyết. Không cuồng nộ, mà trầm sâu, như gió rừng lùa qua cánh lá mục. Như tiếng gọi của người chết từ đất. tiếng vọng xa xôi từ xưa. Từ cội rất rất lâu. Từ bên kia bờ sinh tử. Ông Bảy rút thước về, đưa tay ấn nhẹ lên ngực nó. Một cái ấn như đóng dấu, như truyền một lời thệ. Ông thì thào, nhưng giọng vẫn vọng như từ lòng đất dội lên:

– Máu mày động rồi. Mạng mày đã giao. Không học thì chết, học thì sống. Không ai chọn thay mày được nữa.

Khương ngồi bất động. Mồ hôi rịn ra trên trán, nhưng mắt cậu lại trong veo đến lạ. Trong khoảnh khắc ấy, Khương biết… cuộc đời mình sẽ không còn là những ngày lội rạch bắt cá, sống cuộc sống như một người bình thường của lang Nọc Rùa. Một con đường khác, xa hơn, tối hơn, sâu hơn… vừa mở ra dưới chân nó.



1

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout