GÒ MÃ HOANG, LÁ BÙA GẪY




Từ lúc được ông Bảy khai căn, Khương bắt đầu cảm nhận những điều mà trước giờ chỉ nghĩ là tưởng tượng. Ban đầu chỉ là vài lần ớn lạnh sống lưng bất chợt, như có ai nhìn trộm từ sau lưng. Rồi dần dà, những cảm giác ấy đến thường xuyên hơn – nhất là vào lúc chạng vạng hoặc rạng đông. Có lúc đang tắm mương, cậu chợt thấy một bóng người thấp thoáng sau bụi chuối bên kia bờ, nhưng khi nhìn kỹ thì không còn gì cả. Có lúc đang nằm võng, lại nghe tiếng chân bước rất khẽ quanh nhà, nhưng khi bật dậy ra xem thì chỉ thấy gió lùa qua hàng cau, lá bay lả tả. Mắt cậu không còn như xưa. Nó thấy được những ảo ảnh nhạt nhòa, như thể nhìn qua một lớp sương dày, có khi là một bàn tay, có khi là một gương mặt trôi lơ lửng rồi tan mất như khói.

Khương cũng không dám đi mò cua bắt cá ban đêm như trước nữa. Dù chỉ cần đeo chiếc lờ tre ra mé rạch là bắt được một mớ, nhưng mỗi lần nghĩ đến bóng trắng đêm đó bên miễu, cậu lại thấy rờn rợn. Những tiếng the thé thì thầm, văng vẳng như gió rít qua tai vẫn còn đọng lại đâu đó trong đầu. Cảm giác lạnh buốt khi bị thứ gì đó nhìn chằm chằm từ trong khu miễu cổ khiến tay chân cậu như đông cứng. Cậu cũng chẳng dám bén mảng lại gần nữa – cái miễu cũ kỹ nằm sâu trong bưng Đá Đen, đã không còn hương khói gì nữa, dân trong vùng hay nói nhỏ với nhau rằng đã lâu không ai dám cúng kiến gì vì đồn nhau miễu đó đã cũ, vong hồn trú ngụ nhiều, kẻ nào đến đó dễ bị ma quỷ dẫn đường.  

Ông Bảy Cốt sau khi thấy cậu chịu khai căn – cũng bắt đầu thay đổi thái độ. Ông không còn gắt gỏng, xua đuổi như trước mỗi lần Khương hỏi chuyện âm dương. Thay vào đó, ông âm thầm dẫn cậu theo trong những chuyến đi bắt ma, trừ tà, lập đàn cầu siêu cho những vong linh lang thang không người thân cúng tế. Có khi là đến nhà ai đó giữa đêm khuya, khi họ thắp nhang xin cứu một đứa con bỗng dưng nói tiếng lạ. Có khi là ra bìa rừng, nơi một kẻ đi săn chẳng may lạc lối, về nhà đêm nào cũng bị bóng đè. Những nơi ấy, Khương được nhìn thấy ông Bảy rút từng lá bùa trong tay nải, đốt nhang, vẽ trận pháp bằng vôi trắng, và đọc những câu chú mà cậu không hiểu nghĩa nhưng nghe xong là sởn cả da gà. Cậu không dám hỏi nhiều, chỉ lặng lẽ đứng sau lưng ông, lắng nghe, quan sát và thỉnh thoảng được sai phụ giúp đốt trầm, đưa gương hoặc rắc gạo nếp quanh vòng bùa.

Mỗi lần theo ông về, nó lại thấy người mình mỏi nhừ, cổ họng khô rát, nhưng trong lòng lại có một thứ gì đó âm ấm, như ngọn lửa nhỏ vừa mới chớm nhóm trong tim. Dù sợ, dù chưa hiểu hết, nhưng Khương biết một điều: mình đã đặt chân lên con đường không giống ai, và từ đây cũng không thể thoát ra được. Có những lúc, nó dần dần nhìn thấy rõ hơn những bóng trắng, bóng đen lờ mờ qua lại ở góc mắt, thấp thoáng như khói, như sương, có khi chỉ một cái bóng lướt ngang bên bờ ao, có khi là một dáng người đứng giữa đường ruộng rồi biến mất ngay khi nó quay lại nhìn thẳng. Tai nó cũng bắt đầu nghe được những âm thanh lạ – tiếng thở dài, tiếng rên rỉ ai oán như có người đau đớn lắm nhưng không thành lời. Điều đáng sợ là, những âm thanh đó không hề giống tiếng của người sống. Nó mỏng, the thé, thỉnh thoảng kéo dài như hơi thở cuối cùng của ai đó đang chờ được giải thoát.

Một lần, trên đường về sau buổi pháp đàn cầu siêu ở xóm Gò Trâm – nơi có vụ chết chùm năm mạng vì đuối nước – trời đã khuya lắm, chỉ còn ánh trăng non lấp ló sau mấy đám mây xám. Khương theo ông Bảy đi bộ ngang qua cánh đồng lớn, gió thổi mênh mang, ruộng nước lấp loáng ánh trăng. Khi đến gần một gò mã nơi chôn những người không có thân nhân, chỉ cắm cây gậy tre làm dấu, và lát vùng quanh những phiến đá voi trắng làm dấu – chân cậu bỗng khựng lại. Không phải vì sợ, mà vì có gì đó níu kéo. Cảm giác kỳ lạ như thể lòng bàn chân bị ai giữ chặt, từng sợi gân sợi máu trong người như dính vào nơi đó, không muốn bước tiếp. Nó đứng đó, mắt nhìn mông lung vào đám mồ mả lổm ngổm lẫn trong cỏ cao quá đầu gối. Trái tim bỗng đập chậm lại, tai nghe rõ mồn một một tiếng thì thầm như vọng từ dưới đất lên: "Đứng lại… coi tụi tao…".

Nó không rõ mình đã đứng bao lâu, chỉ đến khi tiếng ông Bảy gọi lớn phía trước:

– Khương!

Nó mới giật mình tỉnh khỏi cơn vô thức, lảo đảo bước tiếp. Khi đã theo kịp ông, lòng còn vương cái cảm giác mơ hồ, lạnh sống lưng. Nó ráng lấy hết can đảm, quay sang hỏi:

– Ông Bảy… nãy con thấy… sao con cứ muốn đứng lại đó hoài. Lạ lắm ông ơi.

Nhưng ông Bảy không đáp liền. Gương mặt ông tối lại trong ánh trăng. Một lúc sau, ông chỉ nói một câu cụt lủn:

– Đi ngang mã, mồ… Kiêng nói chuyện.

Giọng ông khàn đục, thấp như gió rít qua miệng lu cạn. Nghe vậy, Khương cũng im bặt, không dám hỏi thêm, cũng không buồn nói gì nữa. Cậu chỉ cúi đầu, lặng lẽ bước theo sau ông. Mỗi bước đi, tiếng xìn bùn bám dưới chân phát ra những tiếng nhóp nhép nặng nề. Bóng ông Bảy đi trước chập chờn như bóng ma già dẫn đường giữa đêm vắng. Gió trên đồng vẫn thổi từng cơn lành lạnh, cánh cò bay vội vã qua đầu, lặn mất vào bóng tối. Từ đó về sau, Khương biết thêm một điều trong con đường mình đang bước: không phải cái gì thấy được cũng nên hỏi, không phải nơi nào nghe được cũng nên đáp. Có những điều chỉ nên giữ trong lòng, vì nói ra… là mang theo.

Mỗi lần làm lễ, lập đàn cầu siêu xong, ông Bảy chẳng bao giờ nhận tiền. Ai đem tới bao thư, ông đều lắc đầu từ chối. Nếu có nhận, thì cũng chỉ là vài thứ lễ mọn như trái cây, con gà, con cá do người nhờ ông giúp mang đến. Nhà nào nghèo quá, đến nỗi phải chạy vạy từng bữa cơm, ông xem như giúp không công. “Làm việc âm, lấy tiền trần… coi chừng dính nghiệp,” ông từng nói vậy, rồi nhìn xa xăm như đang nhớ lại điều gì. Có lần một bà góa đem đến cho ông hai ký gạo và một trái đu đủ, vừa đặt xuống mâm cúng vừa khóc mà nói: “Nhờ ông cứu con gái tui, mấy tháng nay nó như người khác sống trong người nó vậy.”

Ông Bảy không nói gì, chỉ gật đầu, làm lễ xong còn đưa bà ấy ba lá bùa, dặn bà một lá là bùa “ An Thần” bỏ dưới gối con bé khi ngủ, hai lá còn lại là bùa “Trấn cửa”, dán hai bên cửa nhà, vong linh sẽ không thể vào nhà quấy phá. Từ khi theo ông Bảy đi trừ tà, lập đàn cầu siêu, Khương mới thấm được cái gọi là “làm việc âm không dễ”. Ông hay sai Khương chuẩn bị lễ: đốt trầm, nung tro, giết gà lấy máu, rồi lấy giấy bản vẽ bùa. Cậu còn phải học thuộc những hình vẽ ngoằn ngoèo như con dun đất bò trong một cuốn sách cũ kỹ, giấy đã mục rách lỗ, nét chữ như nhòe đi vì nước mưa thấm lâu năm. Bìa sách được bọc bằng một lớp da màu nâu sẫm, sờ vào thấy lạnh lạnh. Ông Bảy gọi đó là “Thuật lỗ ban”. Những hình vẽ trong ấy không giống chữ, không giống tranh, mà như thứ gì ở giữa – run rẩy, mờ mờ, vừa như có sinh khí, vừa như muốn bò ra khỏi trang giấy nếu nhìn lâu.

Ông Bảy bảo đó là hình dạng bùa chú, nhưng vội vã dặn thêm: "Biết hình dáng chưa đủ đâu. Phải biết cách vẽ, cách khai triển nó mới thành chú thuật. Mà muốn vẽ, không phải lấy than, mực là xong. Phải dùng máu gà sống, có khi máu chó mực, mạnh hơn nữa là máu người, có khi phải trộn tro, nhựa cây, bồ hóng, tùy loại bùa, tùy vong cần độ hay tà cần trấn." Ông chỉ cho Khương từng loại nguyên liệu, dạy cách nung tro sao cho vừa tay, máu gà rút ra từ đâu thì linh hơn, vẽ bằng tay trái hay phải để đúng "chiều âm". Rồi ông lại nói tiếp, ánh mắt nghiêm lại: “Mà có nguyên liệu, biết vẽ cũng chưa đủ đâu. Muốn thi phép, đọc chú, thì người đó phải có căn. Phải là người có khí tức, có đạo hạnh, có ‘lực’ trong người thì bùa mới ‘dính’. Chớ không phải ai cũng đọc là xong.” Lúc đầu, Khương nghe mà bán tín bán nghi. Cậu thấy mình vẽ được bùa, học được chú, cũng thuộc mấy câu đọc ra nghe rùng rợn y chang ông Bảy, mà sao cầm lên vẫn thấy lạnh ngắt, vô hồn. Ông Bảy nhìn rồi cười: “Tại mầy chưa có đạo lực. Tượng thì có, hồn thì chưa.” Khương lúc đó không tin mấy. Cậu nghĩ chắc ông Bảy muốn giữ nghề cho riêng mình. Nhưng sau những chuyện vừa trải qua, những bóng trắng trong đêm, những tiếng thì thầm ở miễu hoang, ánh mắt người bị ma nhập rợn tới tận xương. Khương bắt đầu tin. Không tin không được. Những chuyện xảy ra rõ ràng không thể lý giải bằng lý lẽ người trần. Và cậu cũng dần hiểu, con đường mà mình đang bước vào không chỉ là học vẽ bùa hay đọc chú, mà là học cách bước chân giữa hai cõi dương và âm mà không để mình bị lôi kéo sang bên kia.

Mấy bữa sau, cả làng Nọc Rùa bắt đầu râm ran những chuyện không ai dám nói lớn tiếng. Ban đầu chỉ là tiếng chó sủa đêm – sủa liên tục, từng hồi dài, như có ai đi quanh xóm mà không nhìn thấy mặt. Rồi có đứa con nít trong xóm Gò Thơm khóc thét giữa đêm, nói thấy "một người đứng ngoài cửa sổ nhìn vô, cười… mà không có mặt, chỉ có hàm răng trắng bóc." Bà mẹ hốt hoảng chạy ra, nhưng ngoài kia chỉ có bụi tre lay động theo gió, ánh trăng nhợt nhạt chiếu lên nền đất ẩm mốc như một vệt máu loang. Vậy mà không riêng nhà đó – nhà nào cũng có chuyện. Đèn dầu cháy đỏ quạch cả đêm, không ai dám thổi tắt, dù khói làm cay mắt. Người già thì khấn vái không ngừng, kêu hồn kêu phách về phù hộ, còn thanh niên trai tráng, vốn dĩ gan lì, giờ cũng không dám ra khỏi nhà sau chín giờ tối. Tiếng xầm xì lan nhanh như gió chướng, ai cũng chỉ trỏ về phía bưng Đá Đen, nơi có cái miễu hoang lâu năm không ai dám lại gần. Có người nói “có gì đó thoát ra rồi”, có người lại bảo “chắc vong đói phá làng, đòi cúng kiếng”. Người thì tin, người không, nhưng ai nấy đều nhìn nhau bằng ánh mắt nửa nghi hoặc nửa sợ hãi. Trẻ con bị cấm bén mảng ra ruộng, người lớn đi đâu cũng thủ theo nhúm muối, nhánh tỏi, lá bùa gấp trong túi áo.

Trong khi đó, ông Bảy Cốt chẳng nói một lời. Ông không rầy la, cũng không ra giữa xóm khuyên dân như mọi lần. Chỉ thấy ông ngồi suốt ngày trong chòi tranh, mắt lim dim, tay thoăn thoắt vót nan tre, tỉ mẩn như đang làm lồng gà. Nhưng Khương biết, ông đang chuẩn bị pháp cụ trừ tà,trục vong. Có khi ông lấy tro hòa với máu gà, dùng cọ lông chuột vẽ từng vòng tròn kỳ dị trên tấm vải vàng úa. Khương nhìn mà rùng mình, vì thấy từng nét vẽ như có linh hồn, run rẩy khi chạm vào ánh lửa. Đến chiều ngày thứ ba, ông Bảy gọi Khương lại, giọng vẫn đều đều nhưng lạnh hơn thường lệ: – Tối nay… mày đi theo tao.

Khương đứng sững. Ông Bảy chưa bao giờ bảo cậu đi cùng khi ra pháp đàn chính. Những lần trước, chỉ cho đi phụ lễ, đốt nhang, pha nước gừng, chưa khi nào được bước vào vòng bùa chính giữa. Nhưng lần này thì khác. Ông Bảy dặn kỹ lưỡng: mang theo cây thước Lỗ Ban cất trong hộp gỗ, bó nhang thơm đã tẩm rượu tỏi, và một con gà trống lông đỏ – phải đỏ toàn thân, không lai lông đen hay lông bông, vì đó là “gà hiến mạng”. Trời vừa sụp tối, gió từ bưng thổi về lành lạnh. Ánh trăng bị che khuất bởi mây đen, cả làng chìm vào thứ im lặng kỳ quái, không có tiếng chó sủa, không có tiếng ếch nhái, chỉ còn tiếng nhang cháy rì rì bên bàn thờ từng nhà. Khương mặc áo bà ba đen, tay ôm con gà, theo sát ông Bảy đi trên con lối nhỏ ra mé ruộng. Mỗi bước đi, lòng cậu càng nặng, như có bàn tay vô hình bám lên vai kéo lại. Nhưng cậu không lùi bước. Bởi cậu biết: tối nay… có thứ đang chờ họ ở đó. Thứ mà có lẽ, không phải ai cũng dám nhìn thẳng vào mắt.

Đêm đó, trời không trăng. Mưa lâm râm như sương khói giăng mờ, từng hạt nhỏ li ti nhưng lạnh buốt, như thấm từ dưới đất thấm ngược lên da thịt, xuyên qua lớp áo bà ba mỏng manh. Gió từ phía bưng thổi về từng cơn rít qua những hàng cây rậm rạp, mang theo mùi ngai ngái của cỏ mục và đất mồ lâu ngày chưa ai thăm viếng. Khương theo sát sau lưng ông Bảy, bước từng bước men theo lối bờ ruộng trơn trợt sau lưng làng. Hai bên là cỏ dại mọc um tùm, cao tới hông, vương đầy nước mưa, dính bết vào ống quần. Dưới chân là xình bùn dẻo quẹo, mỗi bước đi là một tiếng nhóp nhép u uất vang lên trong không gian u ám. Chẳng mấy chốc, hai người đã tới khu gò mả cũ, một dải đồng hoang lổn nhổn mồ mả bị cỏ che khuất. Những cái mả cũ kỹ, có bao quanh bằng đá voi và cấm tre làm dấu đã lỗm chổm không còn nguyên vẹn, nghiêng ngả, nứt như bị ai đập vỡ từ dưới lòng đất. Khương chợt nhận ra đó là khu gò mả trước đây từng nếu chân tôi đứng lại,cậu nghe được tiếng gọi của ai đó như phát ra từ dưới lòng đất sâu. Ông Bảy khàn khàn nói nó hay:

– Ở đây là gò mả chôn ba đứa lính chết trận… xác không đầu. Tao từng trấn mộ tụi nó hơn mười mấy năm rồi. Nhưng hôm nay... bùa trấn mộ đã bị phá trước thời hạn... .

Ông Bảy ngừng lại một chút, ánh mắt tối sầm nhìn xuống lòng mả như đang thấy tận bên dưới đáy đất. Giọng ông nhỏ dần, nhưng nặng như đá tảng:

– … Có lẽ nào… .

Khương lòng bồn chồn như có lửa châm vào tim. Cậu nuốt nước miếng, giọng khản khản:

– Ý thầy là… là sao?

Ông Bảy không trả lời ngay. Ông nhắm mắt, lẩm bẩm câu gì trong cổ họng, rồi khẽ thở dài:

–Oán linh đã hóa ác linh, phá cả bùa trấn mộ...  có người đã bỏ mạng rồi... .

Nghe tới đó, tim Khương lạnh ngắt. Ông Bảy lấy ba cây nhang thơm, đốt bằng lửa nến thay vì lửa quẹt, rồi cắm quanh gò mả theo hình tam giác. Mùi khói trầm quyện với gió đêm, lẫn trong hương bùn tanh tưởi và mùi máu gà vẫn còn tươi. Khương nghe ông dặn, run tay cắm lại cây tre đánh dấu gò mả vừa bị giựt bật khỏi đất, đặt lá bùa mới được vẽ trên tấm vải vàng – vừa vẽ ban chiều bằng máu con gà lông đỏ lên đúng vị trí phong ấn. Ông Bảy bắt đầu kết ấn bằng hai tay, vẽ liên tục những hình quái dị trước không trung, miệng lầm rầm đọc chú. Càng đọc, gió càng mạnh. Từng cơn rít qua đám cỏ như tiếng khóc than giữa đồng khuya. Lá cây rạp xuống, vòng bùa khẽ phát sáng trong bóng đêm. Mặt đất dưới chân Khương run nhè nhẹ như có ai đang bò ngược từ lòng đất. Mùi tanh bốc lên nồng nặc.

Trong ánh đèn đèn cầy leo lét, ông Bảy nhíu mày, mắt sâu hoắm như tối sầm lại. Khương đứng cách một đoạn mà mồ hôi vã ra, lạnh ngắt, chân cứng đờ như chôn xuống bùn. Tim cậu đập mạnh từng hồi, không phải vì mệt mà vì sợ. Cậu có cảm giác thứ gì đó vừa lướt qua sau gáy mình – lạnh buốt như đầu lưỡi của bóng tối. Đôi mắt thì cứ như bị kéo về phía huyệt mả, nơi mặt đất đen sì kia đang hầm hập một luồng khí kỳ lạ. Ông Bảy không nói gì thêm. Ông đưa tay vào tay nải, lấy ra vài lá bùa bằng giấy bản được làm từ máu gà chống, cùng cây thước Lỗ Ban bằng gỗ dẻ, ông dán bùa lên từng cái mả trên gò, rồi dùng thước gõ nhẹ lên mặt mả ba cái – cốc, cốc, cốc – âm thanh vang vọng như gõ vào rương trống. Mỗi tiếng gõ vang lên, cánh đồng như nín thở. Gió ngừng thổi. Cỏ không lay. Tiếng ếch nhái tắt ngấm. Cả không gian như đông cứng lại trong một khắc.

Khương ôm chặt con gà trống lông đỏ trong tay, nó bấy giờ đột nhiên vỗ cánh đập loạn, mắt trợn tròn như thấy gì đáng sợ. Nó quang quác một tiếng dài, rồi im bặt – lặng ngắt. Cái im đó khiến tim Khương đập hụt một nhịp. Ông Bảy gằn giọng:

– Dậy rồi… Nó thức rồi đó.

Khương toát mồ hôi, hai tay run lên bần bật. Cậu biết, thứ nằm dưới cái mả này… giờ không còn muốn nằm yên nữa.

Bỗng – rào một tiếng – từ phía sau mộ, một bóng đen lao ra, nhanh như cắt. Nó có hình người, nhưng không có mặt. Chỗ lẽ ra là mắt, chỉ là hai lỗ trống hoác. Miệng nó há ra như cười, nhưng không có răng, không có lưỡi. Chân nó quặp lại như chân chim, bước đi không chạm đất mà như lướt, mỗi bước làm không khí lạnh buốt. “Đừng nhìn nó!” – ông Bảy hét lớn. Khương giật mình, nhắm chặt mắt. Nhưng dù mắt nhắm, cậu vẫn cảm nhận được thứ bóng ấy lướt qua ngay trước mặt. Hơi lạnh từ nó táp vào da thịt như ai hơ lửa bằng băng đá. Tim cậu thắt lại, tay run cầm cập, gần như đánh rơi con gà. Rồi giọng ông Bảy vang lên như sấm:

– Trấn âm – định linh – khóa mộ! – Hồn không tên, mả không đầu – quay về chỗ cũ!

Lời chú vừa dứt, gió xung quanh nổi lên một hồi xoáy mạnh. Con gà trống trong tay Khương kêu một tiếng “te!” sắc như dao cứa, rồi giãy chết trong tay – đầu gục, thân cứng lại. Tiếng gió im bặt. Khi Khương mở mắt, chỉ thấy đám cỏ phẳng lặng, vòng bùa còn sáng âm ỉ, và bóng kia hóa thành ba bóng người không đầu… rồi tan như khói... khuất sâu xuống gò mả.

Ông Bảy khuỵu xuống nền đất, mồ hôi túa ra hai bên thái dương, thở dốc từng hơi. Khương bước tới đỡ, mà tay cậu cũng không ngừng run.

– Cả ba oán linh này oán niệm lớn nay đã hóa thành một ác linh.

ông Bảy nói, giọng lạc đi.

  • Cũng may, ác linh này chưa mạnh, có thể trấn yểm ... Nhưng bùa bị xé rách, gậy tre bị bứng đi, việc này không tốt... tao cảm ấy âm linh sắp kéo về vùng này.

Khương ngơ ngác:

– Ý thầy…?

Ông Bảy ngẩng lên, mắt nhìn thẳng:

– Rồi sớm muộn mầy sẽ hiểu.

Khương cúi xuống nhìn lá bùa mới đặt trên gò mả lúc nãy, thấy nó đã cháy xém một góc, lem bùn và… ướt. Ướt như có ai vừa thở phì phò từ dưới đất lên. Cậu rùng mình quay đi, nhưng khi bước chân khỏi mé cỏ, bỗng nghe phía sau rúc rích… rúc rích…tiếng cười khe khẽ, như con nít, như đàn bà, vang lên từ giữa đám lau sậy sau mả. Cậu không dám quay đầu.

Sáng hôm sau, khi người trong xóm còn đang chưa kịp quét sân, tin dữ đã lan ra: một đứa bé trai ba tuổi – cháu ngoại bà Sáu Bần – chết đột ngột trong giấc ngủ. Mặt tím tái, mắt mở trừng trừng như vẫn còn thấy gì đó trước khi tắt thở. Không bệnh, không sốt. Chết… lặng lẽ như bị ai rút mất hơi thở. Ba Khương đứng phía xa, nhìn người ta dựng rạp làm đám tang, ánh mắt Nó đỏ hoe, nặng trĩu, như người vừa biết một bí mật quá sức chịu đựng. Tối hôm đó, ông Bảy ngồi dưới ngọn đèn dầu lặng lẽ cháy đỏ. Trước mặt Khương, ông trải ra ba lá bùa giấy vàng, cạnh đó là một chén máu gà còn ấm.

– Bắt đầu từ hôm nay… tao dạy mày vẽ bùa bằng máu.

Ông nhìn thẳng vào mắt Khương, giọng chậm rãi, dứt khoát:

– Không học kịp… thì tới lúc gặp thứ kia, mày chết trước tao.


0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout