CHƯƠNG V
CUỘC CHIẾN RỪNG CÔ NHI
Sau khi thu được cỏ vong hồn và vảy Cù Đinh, Khương nằm mê man ba ngày ba đêm. Trong cơn mê, những ảo cảnh kỳ dị cứ lồ lộ hiện ra. Lúc thì có bóng người thoắt cái lướt ngang sau lưng, ẩn hiện trong màn sương đen như khói rạ cháy âm ỉ, quay đầu lại thì chỉ thấy trống hoác, lạnh buốt. Lúc thì từng luồng khói xám sì bay là đà, khói đó như được kết từ tro cốt lâu ngày, trong làn khói lập lòe những gương mặt tái mét, méo mó, ánh mắt đăm đăm như trách móc, như cầu xin, cũng có lúc lại nhe răng cười trêu ngươi.
Tiếng cười the thé, rền rĩ vọng lên từ đâu đó trong sương mù đặc quánh, khi xa khi gần, khi văng vẳng như ai gọi hồn trong đêm. Cậu thấy mình đang đứng giữa một miền u linh, nơi ranh giới âm dương chẳng còn rạch ròi nữa. Cái cảm giác lạnh lẽo, ma mị ấy bủa vây lấy tâm trí Khương, khiến cậu bật người tỉnh dậy giữa đêm như vừa lội từ âm giới về trần.
Mồ hôi tuôn như tắm, người nóng bừng như bị thiêu. Ngoài cửa tre, ông Bảy Cốt bước vô, tay cầm một chai rượu đen ngòm, trong chai lấp ló những hình thù kỳ dị – nào là rết, bò cạp, thằn lằn, hòa cùng những nhánh thảo dược quái lạ, sặc mùi âm khí. Ông Bảy không nói không rằng, rót ra một chén nhỏ, vừa đủ nửa, đưa cho Khương:
– Uống đi.
Khương nhìn chén rượu mà chần chừ, mùi nồng cay xộc thẳng vô mũi, tanh tanh như máu bầy dơi. Nhưng rồi cậu cũng đưa lên miệng, nhấp từng ngụm.
Rượu vô tới đâu, gan ruột như bốc hỏa tới đó. Một luồng khí nóng hừng hực chạy dọc sống lưng, lan ra toàn thân. Da cậu đỏ như bị lửa hun, tim đập thình thịch như trống làng. Nhưng giữa cái nồng, cái nóng, cậu lại cảm nhận được một luồng khí lạ – mạnh mẽ, dữ dội, như đang vực dậy phần hồn vừa trượt xuống mép vực u linh.
– Đây là rượu hoàn hồn. Loại này dành cho những ai bị ma rừng dẫn lối, hay lỡ để quỷ âm đoạt mất hồn vía, sau khi được cứu khỏi nạn thì phải uống để tẩy ruột gan, xua tà khí còn đọng lại trong thân xác. – Ông Bảy nói, giọng khàn như tiếng gió rít qua rặng tràm khuya.
Khương nghe vậy, không dám chần chừ. Cậu bưng chén rượu, nốc một hơi tới cạn. Mùi tanh hôi của rắn rết lẫn thảo dược làm cậu suýt ói, nhưng cái nóng rẫy lan từ cổ xuống bụng khiến cả người bừng bừng như lửa nung. Mồ hôi vã ra, mặt đỏ gay, tim đập dồn dập như trống trận.
– Phong ấn sao rồi thầy? – Khương lên tiếng, giọng vẫn còn khàn khàn.
– Mầy đừng lo. Tao đã lập tế đàn, phong ấn cũng đã xong. Ba hôm nay làng Nọc Rùa bắt đầu yên rồi, không còn mấy chuyện ma quỷ rình rập như trước nữa. – Ông Bảy đáp, nhưng ánh mắt lại thoáng chút gì đó không yên.
Khương cảm được điều gì lạ lạ. Ông Bảy Cốt như đang giấu cậu chuyện gì chưa nói ra. Cậu toan mở lời:
– Thầy à... trong mộng con thấy...
Chưa kịp dứt câu, bên ngoài túp liều tranh bỗng vang lên tiếng chân chạy lật đật. Một người đàn bà nhào vô, thở dốc, vẻ mặt hốt hoảng tột độ. Đó là vợ của Tư Ếch – người mà lúc trước đã nhờ thầy tôi đến nhà trục ma đói nhập xác cho vợ anh ta. Bà quỳ rạp xuống, tay chấp lại, nước mắt ràn rụa:
– Thầy Bảy ơi… thầy làm ơn cứu chồng con! Ảnh đi rừng mấy bữa nay chưa thấy về…
Ông Bảy bước tới, đỡ bà dậy:
– Chồng mầy đi mấy bữa rồi?
– Dạ năm bữa rồi thầy ơi… Người làng rủ nhau đi tìm hết dọc mé rừng mà không thấy. Người ta nói chắc bị ma rừng bắt mất… nên con qua đây lạy thầy, cứu dùm chồng con… Con lạy thầy!
Nghe tới đó, ông Bảy trầm giọng, mắt ánh lên sự nghiêm trọng:
– Chuyện này lành ít dữ nhiều… Mầy về nhà lấy cho tao một cái áo của chồng mầy, rồi kêu thêm vài đứa trai tráng trong làng, mấy đứa hay đi rừng, bảo tụi nó chuẩn bị theo tao. Vài giờ nữa tao sẽ ra đầu làng. Dắt đường vô rừng, tao coi có kiếm lại được chồng mầy không…
Vợ Tư Ếch nghe vậy mừng như vớ được cọc, vội vàng đứng dậy, chạy một mạch về nhà làm theo lời ông Bảy dặn. Ông Bảy quay vào, lúi húi sắp xếp tay nải đựng pháp cụ. Ông liếc Khương, nói:
– Mầy mới tỉnh, thân còn yếu, ở nhà nghỉ thêm vài bữa đi.
Nhưng Khương lắc đầu, ánh mắt cương quyết:
– Thầy cho con đi theo. Nếu chuyện liên quan tới ma rừng, con muốn tận mắt chứng kiến. Với lại… con có cảm giác có cái gì đó... đang gọi mình.
Ông Bảy thở ra một tiếng dài, rồi gật đầu nhẹ:
– Thôi thì... đi thì đi. Nhưng nhớ kỹ, vô rừng là không được tự ý bước khỏi hàng. Bước trật một bước là mất xác như chơi.
Khương cùng thầy Bảy Cốt chuẩn bị xong xuôi, tay nải đeo lên vai, rồi cả hai lên đường ra đến cổng làng Nọc Rùa. Ngoài đó đã có một nhóm người đứng đợi sẵn. Ba thanh niên, mặt mày rám nắng, mặc áo bà ba sậm màu, chân mang dép gơm, lưng đeo gùi, tay cầm đủ thứ: người vác dây thừng, người ôm cung tên, giáo nhọn, trông thiệt oai phong, đúng kiểu đực rựa miền biên giới chuyên quen đi rừng.
Kế bên là hai người lạ mặt. Một người đàn ông trạc tuổi ông Bảy, mặc áo sặc sỡ kì lạ, quần xếp nhiều nếp, đầu quấn khăn choàng kiểu Khmer, cổ đeo sợi dây chuyền mặt nanh hổ dài tới tận ngực. Dáng đi chậm rãi nhưng mắt ánh lên vẻ tự tin khó lường. Ông ta tự xưng là thầy pháp, tên Tư Nghĩa. Đi kèm là một thanh niên ngoài hai mươi, lưng thẳng, da trắng, mặt có phần bảnh trai nhưng ánh mắt thì lạnh lẽo, ăn mặc giống đồ đạo hạnh, chắc là đệ tử ruột của thầy Tư.
Hai người này mới tới làng chừng vài tháng. Sau loạt chuyện quỷ dị liên tiếp xảy ra mà ông Bảy Cốt không tiện can thiệp hết, thì Tư Nghĩa với đám đệ tử không biết từ phương nào dạt tới. Ông ta dựng một căn quán nhỏ ở đầu làng, treo tấm bảng gỗ sơn đỏ chói chang, đề dòng chữ to tướng:
“Địa Linh Đường – Trừ tà – Trị bệnh – Cầu duyên – Gỡ bùa yểm.”
Lúc đầu dân làng còn bán tín bán nghi, có người dè chừng, có người cười cợt. Nhưng rồi trong làng xảy ra hết chuyện này tới chuyện nọ… Vậy là cũng lác đác có người tìm tới ông ta xin nước phép, coi hạn, giải vía. Nay nghe tin có người bị ma rừng bắt mất, mà ông Bảy Cốt lại phải đích thân ra tay, thì Tư Nghĩa với đệ tử cũng có mặt, nói là “đi theo để hỗ trợ tìm người thất lạc.”
Khương vừa thấy hai thầy trò kia là đã chướng con mắt, trong bụng thầm nghĩ: “Nhìn phát biết liền, thứ học đạo nửa mùa, tới đây cũng chỉ để hù thiên hạ rồi moi tiền dân làng.” Ông Bảy Cốt thì chẳng buồn liếc tới họ, chỉ đứng thẳng người, nghiêm giọng nói một câu gọn lỏn mà lạnh như nước giếng đêm:
– Lần này đi vô rừng... cũng như bước chân xuống Âm Tàu Địa Phủ. Kẻ nào muốn giữ cái mạng, thì tốt nhất quay đầu về đi.
Nghe vậy, mặt hai thầy trò kia tái xanh như tàu lá, mồ hôi lấm tấm trên trán, nhưng ngoài mặt vẫn cố tỏ vẻ đạo mạo, ung dung, làm như chẳng hề sợ hãi gì:
– Ngộ đây là người học đạo trên Núi Thạnh Hầu, thấy dân làng Nọc Rùa gặp chuyện hiểm nguy, há lẽ làm ngơ không ra tay cứu dân độ thế… – thầy Tư Nghĩa nói, giọng trầm trầm mà nghe như kịch hát.
Thằng đệ tử đứng kế bên cũng khúm núm phụ họa:
– Thầy con pháp lực cao thâm, ma quỷ tới cũng phải lánh, người trần mắt thịt sao biết được đạo hạnh của người tu pháp...
Ông Bảy chẳng nói thêm lời nào, chỉ thở nhẹ một tiếng, rồi quay lưng đi thẳng vào rừng, chẳng buồn đáp trả. Cả đoàn cũng lẳng lặng nối gót theo sau, không ai dám hó hé.
Phía trước là Rừng Cô Nhi, cái tên nghe đã rờn rợn, mang theo hơi hướm quái đản từ thuở nào. Người làng đồn đại, ai từng đặt chân vào rừng này ban đêm đều nghe thấy tiếng khóc ai oán của con nít vọng ra, như từ lòng đất dội lên. Có người nói nơi đó có oan nhi cư ngụ, là những đứa trẻ bị má ruồng bỏ, chôn vùi giữa rừng rậm khi chưa kịp cất tiếng gọi một tiếng “má”.
Ông Bảy lấy cái áo của Tư Ếch ra, rút từ trong tay nải một nhánh ngải khô, khấn vái mấy câu bằng tiếng, miệng lẩm bẩm không rõ, rồi phất nhẹ một cái. Kỳ lạ thay, chiếc áo lập tức nhẹ bỗng như tờ giấy bản, rồi bay lơ lửng, cứ thế từ từ lướt về hướng rừng sâu thẳm như tự nó có linh tính riêng. Không ai nói gì, cả đoàn lẳng lặng đi theo dấu áo, lòng ai nấy đều nặng như đá đeo ngực. Càng vào sâu, rừng càng tối, mây mù giăng kín như tấm màn che trời. Không khí đặc quánh, mỗi bước chân lún nhẹ trên thảm lá mục nghe như bước trên da thịt ai đó. Rắn rít bò loằng ngoằng khắp nơi, rít khè dưới gốc cây mục, có con quấn ngang cành như chờ đợi. Côn trùng bay dày đặc, có loài to như nắm tay người lớn, mình tròn đầu nhọn, cánh rung vù vù, bay lượn quanh đầu như muốn đâm vào mắt.
Không gian nặng như có gì đè ép. Mùi ẩm mốc, tanh tưởi của cỏ mục, của vỏ cây thối, và cái hơi u linh cứ lẩn quẩn đâu đây khiến ai nấy cảm thấy gai sống lưng, dù cho chưa thấy ma quỷ, nhưng bóng vía đã bắt đầu lạc. Đi sâu thêm một đoạn nữa, tới một chỗ rừng um tùm tối mịt như không còn chút ánh sáng nào lọt qua, chiếc áo dẫn đường bỗng khựng lại, rồi như thể bị thứ gì đó làm cho kinh hãi, nó quay đầu bay trở lui, run rẩy nép sau lưng Khương, như đứa trẻ hoảng sợ tìm chỗ trú thân.
Cùng lúc ấy, từ trong rừng sâu vang lên tiếng khóc thút thít của trẻ con, vang vọng từng hồi, nghe như ai oán, day dứt. Một cơn gió lạnh thốc qua làn sương dày đặc, thổi xuyên qua da thịt, khiến ai nấy rợn cả tóc gáy. Không khí đột ngột nặng như đá đè, cả đoàn người đều đứng sững, người này nhìn người kia, mặt cắt không còn hột máu, tay chân rung rẩy, sợ đến thót tim.
Duy chỉ có ông Bảy Cốt là vẫn đứng thẳng giữa khoảng rừng âm u. Ông rút ra một lá bùa màu vàng đã cũ, rồi lẩm nhẩm đọc thần chú. Lá bùa trong tay ông bỗng dưng bắt lửa, cháy lên, rồi phụt một cái bay vút lên cao, như đốm sao lạc giữa đêm rừng.
Ánh sáng từ lá bùa phát quang lấp lánh, quét ngang từng gốc cây, từng bụi rậm, rọi thấu qua những tầng lá tối mịt. Ánh sáng ấy bất ngờ làm lộ ra hàng loạt sinh vật quái dị đang bám quanh bọn họ – từ trên cây, dưới đất, đến cả các thân cây cổ thụ to bằng mấy vòng tay người ôm. Không chỉ một, mà rất nhiều. Chúng vây quanh cả đoàn từ lúc nào không hay.
Những con quái vật ấy hình thù gớm ghiếc, mang đỏ tươi như mang cá, đôi mắt đen to tròn như mắt chuồn chuồn, miệng rộng hoác lộ ra vô số răng nhọn li ti, nhìn như thứ được đúc ra từ ác mộng. Chân chúng có vây như chân vịt, tay chỉ có ba ngón, mỗi ngón mọc ra móng vuốt đỏ au, sắc bén như mũi chông. Nước da chúng xám xịt như tro tàn thiêu từ cốt người, thân hình nhỏ thó cỡ một con khỉ con. Mỗi con mặc một chiếc khố vá víu bằng vỏ cây, lá rừng, đầu chỉ lưa thưa vài cọng tóc dựng ngược như lông heo cạo dở.
Chúng không gầm, không rít, mà chỉ lặng lẽ bám mình trên cành cây, khe đá, đôi mắt đen láy nhìn chăm chăm vào đoàn người như thể đang chờ hiệu lệnh để lao tới.
– Là Khỉ nước… – ông Bảy Cốt trầm giọng
– Chúng sống sâu trong rừng, biết ẩn mình vào cây cối, có khả năng tàng hình, tiếng kêu của chúng như tiếng khóc của trẻ con, thường dùng để đe dọa những người xâm phạm lãnh thổ của chúng... chúng còn được gọi là quỷ than khóc.
Nghe tới đó, ba thanh niên đi rừng đứng sau lưng ông Bảy mặt cắt không còn giọt máu, nuốt nước bọt đánh ực một cái, tay nắm chặt lấy dây thừng, giáo nhọn mà vẫn run cầm cập.Thầy Tư Nghĩa cùng thằng đệ tử thì tệ hơn. Mới ban nãy còn lên giọng đạo hạnh, giờ sợ đến ngồi bệt dưới đất, mặt trắng bệch như trét tro bếp, miệng méo xệch chẳng nói được lời nào. Chỉ có Khương là đứng trân trân nhìn đám quái vật kia, vừa bất ngờ vừa háo hức, ánh mắt sáng lên như thể vừa khám phá ra một giống loài bí hiểm mà trước giờ chỉ nghe trong sách vở.
Bỗng nhiên, đám Khỉ nước đồng loạt rít lên, tiếng the thé như tiếng người bị bóp cổ, nghe rợn cả tim gan. Chúng gào rú, lăn lộn trên cành, rồi chồm tới sát mặt đoàn người như muốn hù dọa lần cuối trước khi xông vào. Ông Bảy Cốt đang rút bùa định ra tay trấn áp, thì đột ngột, từ sâu trong lòng rừng vọng ra một thứ âm thanh rợn người. Không phải tiếng gió, không phải tiếng thú, mà là tiếng khóc ai oán, khan đục và dai dẳng như người đã chết thảm vẫn còn uất ức.
Ngay khi tiếng ấy vang lên, sau gáy từng người trong đoàn đều lạnh toát, lông tóc dựng đứng, toàn thân rung lên từng hồi, như thể có ai đó đang phà hơi lạnh sát bên tai. Cả bầy khỉ nước nghe xong cũng chợt im bặt, mắt chúng lộ rõ vẻ hoảng loạn, rồi quay đầu bỏ chạy tán loạn vào rừng, không dám quay lại nhìn. Cái bản năng sinh tồn của loài âm vật dường như cảm nhận được thứ gì còn tà quái hơn đang kéo tới. Khương hít một hơi dài, rồi thì thào:
– Có cái gì đó… mạnh hơn đang ở đây…
Không gian xung quanh như bị một bàn tay vô hình bóp chặt. Mây trời trên cao từ chỗ loang loáng ánh sáng bỗng sầm sì lại, bóng tối trùm kín cả cánh rừng. Gió lặng, sương dày, và luồng âm khí lạnh lẽo như hơi thở người chết bắt đầu trườn bò quanh gốc cây, kẽ lá. Một bóng hình lẩn khuất, thoắt ẩn thoắt hiện giữa tầng sương dày đặc. Chỉ có Khương và thầy Bảy mới nhìn rõ được dáng dấp của nó. Đó là một thân hình cao khều khẳng, lòng khòng như một kẻ đói khát lâu ngày. Thân thể gầy nhom, từng động tác uốn éo rùng mình như nhánh cây khô bị gió rừng quật qua, lay động từng cơn. Nước da nó xám tro, chỗ lở loét, chỗ tróc vảy, như từng bị mối mọt rúc rỉa. Từng mảng thịt chảy dịch, rỉ máu thâm sì như bùn đất trong rừng sâu. Hai con mắt không tròng, trắng dã như cá chết phơi nắng, từ trong hốc mắt lập lòe hai đốm lửa xanh – ánh sáng ma trơi chập chờn rợn gáy. Miệng nó rộng ngoác, xẻ tới mang tai, răng nhọn lởm chởm như gai tre rừng. Mái tóc dài xõa rối, bết đầy rêu, lá mục và đất bùn, như thể nó vừa đội mồ chui lên từ lòng sình thối. Tay chân thì dài ngoằng, gối khuỵu xuống như không có sức, từng ngón tay ngón chân nhọn hoắt, đen sì như móng quạ. Nó lướt vòng quanh đoàn người mà không phát ra lấy một tiếng động, chỉ nghe đâu đó tiếng nước nhểu nhão, tiếng cỏ lau sậy rung khẽ, hay tiếng thở phả sát bên gáy như có ai vừa cúi sát rình rập sau lưng.
Và rồi, nó hiện hình rõ mồn một trước mắt mọi người.
Đám trai tráng tái mét mặt mày, run cầm cập, rồi đồng loạt quỳ rạp xuống đất vì kinh hãi. Thầy pháp Khmer cùng thằng đệ tử thì lom khom bò đến chui rúc sau một gốc cây to, không dám ngẩng đầu. Khương đứng khựng lại, nhìn sinh vật ấy rồi quay sang hỏi thầy Bảy, giọng nghẹn lại:
– Thầy... thứ này là gì vậy?
Ông Bảy Cốt siết chặt lá bùa trong tay, mắt không rời sinh vật kia, trầm giọng:
– Là ma rừng… Là oán linh kết tụ từ những vong hồn thú vật bị giết oan trong rừng, hay những kẻ bỏ mạng nơi rừng thiêng mà xác không ai mang về. Chúng tích tụ lâu năm, ngậm oán mà hóa thành.
Khương nuốt nước bọt, cảm thấy cổ họng khô rát. Ông Bảy tiếp lời:
– Kẻ nào xui rủi mà vào rừng gặp nó, sẽ bị nó dẫn dắt… Nếu không kịp cứu trong bảy ngày, thì người đó sẽ bị hút cạn dương khí mà chết. Xác thân sẽ bị ma rừng giấu biệt, mãi mãi không ai tìm thấy được...
Khương nuốt khan một ngụm nước bọt, mặt tái xanh. Nói một đoạn, ông Bảy ra hiệu cho Khương lấy nắm gạo nếp trộn máu gà, rải đều thành một vòng tròn lên mặt đất theo thế trận ngũ hành. Tay run nhưng vẫn làm đúng từng động tác như lời thầy dặn. Ông Bảy cắm nhánh dâu tằm đã yểm chú xuống đất, rồi lấy từ túi vải một chiếc chuông đồng nhỏ, màu đã ngả sang xanh rêu. Ông lắc mạnh.
Tiếng chuông vang lên trong không khí tĩnh lặng, ngân dài như xé màn sương. Ngay lập tức, con ma rừng rú lên một tiếng chói tai, rụt người lại như bị đâm trúng. Khói nhang đang trắng chuyển sang đỏ máu, cuồn cuộn bốc lên như sắp gọi thứ gì đó từ cõi âm.
Nó vụt đến như một luồng gió độc, thoắt cái đã đứng sát cạnh kết giới. Dáng hình gầy guộc vặn vẹo, mắt lập lòe ánh lửa xanh, tay chân dài ngoằng như muốn xuyên qua lớp kết giới dày đặc. Nhưng gạo nếp pha máu gà thiêng đã cản lại bước nó. Nó tru lên một tràng dài, rồi tan thành làn khói đen, chớp nhoáng bay vòng quanh như tìm đường chui qua kẽ hở. Thấy điềm gở, Khương thét lên:
— Mau lại đây! Nhanh lên!
Hai thầy trò người Khmer vội bò lồm cồm, hoảng loạn chạy về phía vòng kết giới. Nhưng đúng lúc ấy, từ sau lưng họ, ma rừng bất ngờ hiện hình. Nó vươn ngón tay dài như lưỡi dao, đen nhánh và sắc bén, nhắm thẳng vào lưng hai người.
Không kịp nghĩ, ông Bảy lao tới. Vuốt ma rừng đâm xuyên qua vai ông, máu đỏ tươi phun trào, thấm ướt cả vạt áo, từng giọt rơi tong tỏng xuống đất, bốc khói như vừa chạm vào than hồng. Ông đau đớn rú lên, nhưng không ngã.
Gượng đứng dậy, ông Bảy niệm một tràng chú ngữ cổ xưa. Lập tức, từ người ông bắn ra hàng trăm lá bùa vàng rực, như cánh ve bay trong gió xoáy. Chúng bám chặt lấy thân ma rừng, rồi phát sáng dữ dội. Con ma rừng tru tréo, lăn lộn như con heo rừng bị thiến sống, toàn thân co giật vì đau đớn.
Ông Bảy thở hổn hển, vẫn đứng tấn, hai tay chắp lại niệm chú thêm lần nữa. Từng lá bùa trên thân ma rừng đồng loạt bốc cháy, lửa đỏ rực như máu, bập bùng bốc cao. Ánh lửa soi rọi cả đám lau sậy bên bìa rừng, như rọi về một chiều không gian khác.
Ma rừng rít lên thảm thiết, thân hình quằn quại, rồi từ từ hóa thành tro bụi, cuốn theo làn gió rừng hun hút, tan biến vào màn sương như chưa từng hiện diện.
Khương vội vàng lấy nắm gạo nếp rắc lên vết thương còn rỉ máu trên vai ông Bảy Cốt. Gạo vừa chạm da thịt liền bốc khói, chuyển sang màu đen khét lẹt như than cháy. Mùi máu và gạo nung sực nức. Ông Bảy nhăn mặt, cắn răng chịu đựng, không rên một tiếng, chỉ có mồ hôi lạnh túa ra trên trán như vừa trải qua một kiếp nạn.
Chưa kịp hoàn hồn, chiếc áo của Tư Ếch bỗng dưng quẫy đạp mạnh, rồi bất ngờ vút bay về phía rừng sâu như bị thứ gì đó dẫn dắt.
– Nhanh… đi theo nó… – Giọng ông Bảy khản đặc, yếu ớt như lẫn vào hơi sương mù rừng.
Khương lập tức lao theo, ba trai tráng trong làng cũng chạy băng băng phía sau, rạp cả thân người qua những bụi cây chằng chịt. Chiếc áo bay lượn như dẫn đường, cuối cùng đáp xuống bên một gốc cây xộp cổ thụ, rễ ngoằn ngoèo như những con trăn khô quấn chặt mặt đất.
Chiếc áo đập phập phồng dưới chân cây rồi ngừng lại, phất phơ như ra hiệu điều gì. Khương bước chậm đến, tay run run gạt lớp bùn non lẫn rêu xanh phủ bên gốc cây. Mỗi lớp đất được gạt ra là một tầng u ám lột khỏi mặt rừng. Rồi một gương mặt người lờ mờ hiện ra – là Tư Ếch! Mặt mũi anh ta tím tái, người chìm phân nửa trong bùn. Cả nhóm trai làng xông vào giúp Khương lôi anh ra khỏi cái vũng bùn lạnh như địa ngục ấy.
Từ phía sau, ông Bảy Cốt cùng hai thầy trò người Khmer cũng kịp lê đến. Ông Bảy ôm lấy vai, máu vẫn còn nhỏ giọt loang đỏ vạt áo, cố gắng nói trong hơi thở mệt nhọc:
– Thấy nó rồi… còn cứu được… mau về thôi…
Cả nhóm lập tức khiêng Tư Ếch trở ra khỏi khu rừng quái gở. Nhưng trước khi bước đi, Khương quay đầu lại. Cậu thấy ông Bảy vẫn đứng đó, mắt dán chặt vào một khoảng tối sâu hun hút giữa những thân cây. Ông cứ nhìn mãi như thể nơi ấy có điều gì đó vừa rình rập vừa quyến rũ.
– Thầy… chỗ đó có gì hả? – Khương dè dặt hỏi.
Ông Bảy giật mình như bị kéo về thực tại, quay đầu lại, giọng khàn đặc:
– Không… không có gì… mau về đi con…
Nhưng trong ánh mắt ông, Khương cảm nhận rõ ràng một thứ gì đó bị che giấu – một thứ không muốn nói ra, hoặc không dám gọi tên...
Cuối cùng, họ cũng đưa được Tư Ếch về tới nhà. Thầy Bảy nói nếu chậm thêm một hai ngày nữa thôi thì e là người nằm đó chỉ còn là một cái xác lạnh ngắt, hồn phách tiêu tán trong rừng sâu. Nhưng may mắn thay, trời còn thương, đất còn độ, mọi chuyện vẫn còn kịp cứu.
Tin tức lan nhanh như gió, chỉ chập tối là đám trẻ trong làng đã tụm năm tụm bảy kéo nhau tới đứng ngoài hiên nhà Tư Ếch mà tò mò dòm vô. Đứa nào cũng mắt tròn mắt dẹt, mồm há hốc như nghe chuyện ma thiệt sự. Trong đám nhỏ đó, nổi bật nhất là nhóm “tứ quái” gồm thằng Hậu, con Châu, thằng Đực và thằng Sáu – bốn đứa chuyên phá làng phá xóm, đi tới đâu là gà qué kêu la tới đó.
Nhưng trong nhóm, có một đứa đặc biệt hơn hết: thằng Hậu. Nó lanh lẹ, láu cá, mà lại có cái tình, cái nghĩa. Từ hồi Khương còn nhỏ, hãy mỗi lần vào làng theo chân thầy Bảy để làm lễ cầu siêu hay trừ tà, thằng Hậu là đứa đầu tiên chạy theo. Lúc thì dúi cho Khương nắm xôi đậu xanh, lúc thì dúi một trái ổi còn vương nhựa trắng. Cũng có lần nó dắt Khương đi qua những con đường mòn xuyên ruộng, kể lể chuyện ma ông nội nó từng gặp, rồi nằng nặc đòi làm đệ tử trừ tà.
Lần này cũng vậy, vừa nghe tin Khương về làng, thằng Hậu đã chạy đến kiếm. Nó cười toe, tay giấu sau lưng rồi chìa ra hai trái ổi gòn mới bứt trộm bên nhà bà Tư Lựu, còn dính cả lá. Nó nói nhỏ:
– Cho anh nè, ổi này chấm muối hột là hết sẩy. Hái hồi trưa, bà Tư không thấy đâu!
Khương bật cười, xoa đầu nó, lòng thấy ấm lại. Còn ba đứa kia – Châu, Đực với Sáu – tuy phá phách, ồn ào, nhưng cứ thấy Khương về là rủ nhau chạy đến, đứa nào cũng chực nghe chuyện bắt ma, thấy ấn trừ tà, lén chạm tay vào bùa giấy như chạm vào vật thiêng. Mỗi lần Khương kể chuyện ma, mắt tụi nó sáng rực như đom đóm trong đêm. Tụi nó thích thú lắm, như lạc vào một thế giới kì bí nào không thể thoát ra được.
Thầy Bảy dựng pháp đàn giữa gian nhà chính, đốt một nắm nhang rễ ngải và cắm thành hình bát quái trên chiếu trải. Ông lầm rầm đọc chú, tay kết ấn liên tục, bùa vẽ bằng huyết kê đỏ quạch loang cả chiếu. Không khí trong nhà dần đặc quánh, đám trẻ con bị đuổi hết ra ngoài, chỉ còn lại vợ Tư Ếch và vài người thân đứng nín thở.
Khương ngồi sau lưng thầy, tay cầm bát gạo nếp rang làm phép, tim cứ đập rộn như trống hội. Cậu chưa từng thấy thầy nghiêm trọng đến vậy.
Tiếng niệm chú ngân dài, rồi bất ngờ, bụng Tư Ếch khẽ co giật. Mọi người nín lặng, ánh mắt đổ dồn về thân thể bầm tím của người đàn ông nằm bất động. Một âm thanh rợn rợn vang lên từ bên trong như có thứ gì đó đang luồn lách dưới da. Rồi từ cổ họng Tư Ếch, một tiếng ọc nghèn nghẹt vang lên, kèm theo đó là một búng bùn non đen kịt phun ra, kéo theo đầy giòi bọ, rết, sâu xanh bò lổm ngổm dưới sàn chiếu.
Đám người trong nhà không chịu nổi cảnh tượng hãi hùng đó, kẻ thì bịt miệng chạy ra sau hè nôn thốc nôn tháo, người thì ngồi bệt xuống nền mà niệm Phật.
Thầy Bảy vẫn điềm nhiên, tay chụp bùa An Hồn dán lên ngực Tư Ếch, rồi rải muối quanh bốn góc giường, lầm rầm đọc nốt câu chú cuối cùng. Khi hơi thở Tư Ếch đã trở lại ổn định, ông mới lặng lẽ đứng dậy. Ông Bảy quay sang dặn vợ Tư Ếch:
– Trong ba ngày tới, phải nấu cháo lõng, đút cho chồng mày từng muỗng nhỏ. Dưới gối nhớ để lá bùa này, không được bỏ quên. Mỗi sáng thắp nhang ba nén ngoài sân, kêu hồn ảnh về nhập thể đủ ba ngày mới lành lặn.
Dặn dò xong xuôi, ông rút khăn lau mồ hôi, gương mặt hốc hác đi trông thấy. Ra tới sân, ông gọi Khương lại, giọng khàn khàn:
– Vết thương của ma rừng nặng hơn tao tưởng... Kỳ này tao phải bế quan bảy ngày liền để dưỡng khí,trong làng có chuyện gì cũng đừng tự ý đi.
– Sao vậy thầy? Bộ... sắp có chuyện hả?
Khương vừa hỏi vừa cảm thấy lo lắng. Ông Bảy không đáp ngay, chỉ đứng im, nhìn về phía những rặng cây mù sương ngoài bìa làng như đang cân nhắc điều gì đó. Rồi ông quay lại, đôi mắt sâu thẳm nhìn thẳng vào mắt Khương:
– Nhớ lời tao dặn. Có chuyện gì cũng phải đợi tao xuất quan, đừng có manh động, nghe chưa?
– Dạ... con biết rồi.
Khương đáp nhỏ, nhưng trong lòng trĩu nặng những câu hỏi chưa có lời giải. Cậu biết, một chuyện gì đó lớn hơn đang đến gần – và lần này, thầy Bảy không chắc đã có thể một mình chống đỡ…
Sáng hôm sau, ông thầy Khmer sai đệ tử của mình đi khắp làng tung tin: chính ông ta là người đã bắt được ma rừng và cứu sống Tư Ếch. Người trong làng kẻ tin, người ngờ, nhưng khi ông ta lấy ra một chiếc đầu lâu đen kịt, khô quắt như tro than để chứng minh, đám đông bắt đầu xì xào, rồi tin theo.
Từ đó, dân làng ùn ùn kéo đến đạo quán “Địa Linh Đường” của thầy Tư Nghĩa để mua nước thánh, mua bùa cầu tài, cầu lộc, cầu duyên. Có người còn lạy lục xin theo học làm đệ tử, mong được học bùa phép. Tiếng tăm của “thầy đạo Tư Nghĩa” chẳng mấy chốc vang khắp xóm trên, làng dưới, ai ai cũng bàn tán, đồn thổi.
Đêm ngày thứ hai, khi Khương ngồi bắt ấn, luyện vẽ bùa máu trong căn nhà tranh tịch mịch, ánh đèn dầu leo lét chỉ đủ soi một khoảnh nhỏ. Đang mải tập trung, cậu chợt thấy đầu óc choáng váng, rồi như bị kéo tuột vào một mộng cảnh.
Trong cơn mộng, Khương thấy bà Thủ Miễu hiện ra, hình dáng trẻ con với đôi mắt rực sáng, nhưng ánh mắt có phần hoảng loạn, hơi thở đứt quãng như vừa chạy trối chết. Bà cố nói thật nhanh, giọng khản đặc như vang lên tận cõi âm:
– Khương… kẻ đó… đã tới chỗ ta rồi… hắn đang phá phong ấn… mau… mau lên…!
Giọng nói dồn dập, rồi hình ảnh bà Thủ Miễu chập chờn như sương khói, tan dần trong không gian lạnh lẽo. Khương giật mình bừng tỉnh, tim đập thình thịch như trống làng. Mồ hôi rịn ướt sống lưng, ánh đèn dầu bập bùng như sắp tắt.
Ngay lúc ấy, trước ngực Khương phát sáng hình ấn chú lập lòe, tỏa ra thứ ánh sáng đỏ rực như máu...
Cậu quay nhìn qua cửa sổ, hướng về phía ngôi miễu hoang. Gió đêm bỗng nổi lên từng cơn rít dài, cuốn bụi đất bay mù. Mây đen từ đâu kéo đến giăng kín bầu trời, che khuất cả ánh trăng. Sấm chớp nổ vang như báo hiệu một tai ương đang ập tới.
Bình luận
Chưa có bình luận