Trung Quốc năm 1841, bấy giờ thuộc triều vua Đạo Quang, thời cuộc hỗn loạn vì xảy ra cuộc chiến tranh Nha phiến. Quân Anh đã tấn công từ Quảng Châu lên đến Thượng Hải, khí thế kinh hoàng… Người Hoa ôm của cải di cư, nhiều gia tộc chạy tứ phía để tránh nạn binh đao, trong đó rất nhiều người đi xuống phía nam chạy đến đất Việt. Lúc ấy là đầu thời vua Thiệu Trị ở Việt Nam, tình hình ít hỗn loạn hơn nhưng cũng bất ổn vì các tranh chấp giữa Việt-Xiêm-Chân Lạp, nên những người chạy nạn lại tiếp tục xuôi xuống phía Nam, chạy mãi đến Nam kỳ lục tỉnh mới dừng chân. Dần dần cộng đồng người Hoa tích tụ tại đây, an cư lạc nghiệp trong môi trường thiên nhiên tươi xanh, con người thân thiện, chất phác.
Người Hoa đến Việt Nam lập nghiệp, thường có nhiều cách để tự giới thiệu mình. Họ tìm ra một trong những cách tạo thiện cảm với người Việt là tránh cách đọc "Hán nhân" vì nó gợi lại ký ức lịch sử không hay về thời Hán thuộc đối với người Việt, thay vào đó, một số người sẽ tự xưng là "Đường nhân", nghĩa là "người nhà Đường". Vua Đường Minh Hoàng nổi tiếng, và thời Đường phát triển rực rỡ trong lịch sử, có "thánh trà" Lục Vũ, có mỹ nhân Dương Quý Phi, có bao nhiêu văn thơ, hội họa, nghệ thuật, gốm sứ,… Thật sự là một cách để tạo ra những chủ đề nói chuyện vui vẻ giữa người Việt và người Hoa.
Tiếng Quảng Đông phát âm "Đường nhân" là "Thoòng Dành", nên cả nhà ông Lý khi mới đến Việt Nam đã tự giới thiệu mình là "Thoòng Dành Lý Gia", nghĩa là gia đình họ Lý gốc Trung Quốc. Lâu dần, người Việt khu vực ấy gọi họ là gia đình "Lý Dành", gọi luôn ông chủ gia đình này là ông Lý Dành cha, hay Lý Dành lão gia, vì ông đã có con và là trụ cột nuôi gia đình đông người gồm cả họ hàng. Con trai của ông Lý Dành, dù lúc ấy đứa lớn hơn 10 tuổi, còn đứa nhỏ mới bắt đầu đi học, cũng được gọi luôn là Lý Dành con, hay Lý Dành thiếu gia.
Lý Dành được gọi là lão gia, hai con trai ông thì được gọi thiếu gia, không phải là không có lý do liên quan về khả năng lập nghiệp và tạo dựng cơ ngơi. Gia đình họ Lý vốn từ lúc ở Trung Quốc đã nổi tiếng với nghề gia truyền kim hoàn, làm trang sức vàng bạc, chạm khắc ngọc hết sức tinh xảo. Khi họ chạy đến đất Nam kỳ lục tỉnh vẫn tiếp tục nghề gia truyền này, chẳng lâu sau đã lập nghiệp được ở vùng đất mới, khôi phục sự hưng vượng cho gia tộc, khách hàng lúc nào cũng tấp nập. Chỉ gần mười năm sau đó, con trai trưởng của Lý Dành lão gia đã sắp đến lúc được làm lễ nhận nghiệp kim hoàn, vợ con quản xuyến được các cửa tiệm và gia trang, Lý Dành lão gia trở nên nhàn rỗi hơn nên bắt đầu thú du ngoạn khắp tỉnh Gia Định, sau đó lân la qua các vùng khác của Nam Kỳ lục tỉnh. Lúc đầu, ông đi trong ngày, sau đó đi vài ngày mới về nhà, gia đình biết sở thích đó của ông nên cũng không bận tâm, để ông tận hưởng nghỉ ngơi sau cuộc đời bôn ba gian khó.
Một ngày kia, trên đường du ngoạn, đang thơ thẩn trên lối nhỏ nông thôn hẻo lánh lúc chạng vạng tối, chưa kịp tìm ra nhà trọ hoặc nhà dân xin tá túc, Lý Dành lão gia đã bị bọn cướp đường túm lấy, đánh ông đến nửa sống nửa chết, lấy sạch tiền bạc. Chưa hết, nhân lúc ông ngắc ngoải, chúng còn cầm ngón tay đầy máu của ông ấn vào một tờ giấy, rồi kéo lê ông đến một mảnh đất hoang vứt ở đó.
Cả một đêm bất tỉnh giữa sương đêm, lúc hé đôi mắt sưng vù ra, Lý Dành lão gia không còn sức lực nào, hoàn toàn kiệt quệ, toàn thân đau đớn và sưng vù, quần áo bị xé rách rưới đẫm máu, may mắn còn lớp áo lót đệm bông ở trong khá chắc nên không bị bọn cướp xé đến sau khi chúng đã trấn lột hết tiền, nên chút hơi ấm đó giữ được sự sống yếu ớt cho ông.
Khi thấy những người dân đi qua, ông lấy hết sức bò lê, thều thào bằng đôi môi khô quắt, cầu cứu xin họ đưa ông về nhà chăm sóc, ông hứa hậu tạ bằng tiền và vàng bạc. Những người dân nơi đây đều là những người nông dân tốt, họ thấy tình cảnh của ông đáng thương nên có người kéo ông ngồi dậy dựa vào gốc cây, có người cho đồ ăn, rồi người cho nước uống, nhưng không ai dám đưa ông về nhà. Họ không biết lai lịch của ông, ai cũng sợ rước nhầm người xấu vào nhà, chẳng khác nào như rước trộm cướp; phần nữa, họ cũng sợ quan đến tra hỏi chứa chấp người lạ, nếu chẳng may ông chết ở nhà họ thì lại càng rắc rối hơn nữa.
Đến chiều, ông cảm thấy sức cùng lực kiệt, có lẽ không thể qua nổi đêm nay, mắt dần sụp xuống tuyệt vọng rồi. Bỗng một người con gái nhỏ nhắn bước đến, không nói một lời, xốc ông dậy, vừa kéo vừa dìu ông đi. Lý Dành lão gia không còn sức để bước, chỉ biết cố gắng lết chân theo sức đẩy của cô, không cần biết cô là ai và đưa ông đi đâu.
Sau vài con ngõ loanh quanh, họ về một ngôi nhà bình dân, hệt như mọi nhà ở thôn quê. Dù nửa tỉnh nửa mê vì đau, lạnh và đói, nhưng sau một đoạn đường vận động, cơ thể của Lý Dành lão gia cũng nóng ấm hơn, quan trọng hơn hết là hy vọng sống trở lại trong tinh thần. Được dìu qua sân và bước vào nhà, ông nhìn thấy một ông lão tóc dài đang ngồi khoanh chân lên ghế, tay cầm tách thong thả uống trà. Người con gái nói với ông lão ấy:
- Ông ơi, con đưa người bị thương về rồi, bây giờ mình đắp thuốc hay cho uống thuốc?
- Đưa ông ấy lại ngồi đây để ông xem.
Lý Dành lão gia được cô gái đỡ ngồi xuống chiếc ghế gỗ cạnh bàn uống trà. Ông lão mò mẫm với bàn tay, cô gái đưa cánh tay Lý Dành lão gia cho ông lão. Lúc này, Lý Dành mới nhận thấy ông lão bị mù.
Ông lão nắn nhẹ nhàng cánh tay của Lý Dành, bấm một số huyệt và vuốt theo các mạch. Lý Dành cảm nhận bàn tay gân guốc của ông lão ấm áp và mạnh mẽ lướt qua các kinh mạch giúp cơ thể ông lưu thông máu và ấm lại hơn. Cuối cùng, ông lão cầm bàn tay của ông Lý Dành, sờ tỉ mỉ cả bàn tay, từng ngón tay rất lâu, rồi nói:
- Ông chỉ bị đánh bầm dập cơ và thịt thôi, còn mạch và xương cốt không hề hấn tổn thương gì, chỉ cần ông ngủ tốt, ăn ngon, nằm nghỉ vài ngày sẽ dần khỏe lại. Thiên Thanh, con pha cho ông đây ly nước gừng uống ấm người, rồi nấu nước nóng để ông ấy tắm. Trong ấm, ngoài ấm sẽ nhanh tan cơn đau tụ máu. Sau khi tắm, ông ăn nhẹ rồi lên phản gỗ ở góc phòng kia mà ngủ. Từ mai trở đi, mỗi ngày ông cố gắng xoa bóp tay chân, đi dạo cho lưu thông khí huyết. Lúc nào mệt thì ngủ; ngủ đến khi nào cơ thể muốn tỉnh thì sẽ tự nhiên thức dậy, không cần để ý giờ giấc. Trong lúc ta ngủ, cơ thể sẽ chữa lành những vết thương. Nói thêm, ông là người làm về thủ công, có phúc tốt, mạng lớn, khó ai bì.
Thiên Thanh đứng lên đi nấu nước, mấy lúc sau đã quay lại với ly nước gừng ấm, rồi lại đi ra sau nhà nấu nước nóng để tắm.
Lý Dành ngồi lại với ông lão mù, lấy chút sức lực vừa hồi phục, cảm động nói thều thào:
- Tôi xin cảm ơn hai ông cháu ông nhiều lắm. Tôi gặp nạn giữa đường, lúc đầu nghĩ chẳng qua chỉ bị cướp tiền và đánh thôi, nhưng cuối cùng hóa ra chuyện lớn vì thân thể có giới hạn chịu đựng. Nếu không ai cứu giúp, tôi chắc chắn phải bỏ mạng giữa đường rồi. Lúc sắp làm cái thây bên đường thì lại được ông cháu ông cứu mạng, tận tình giúp đỡ. Sau khi khỏe và về nhà, tôi sẽ quay lại hậu tạ ông cháu ông ngoài chi phí chăm sóc.
Ông lão mù cười hiền từ:
- Việc cứu người là nên làm. Hôm nay khi cháu tôi ra khỏi cửa, tôi đã nói, trên đường gặp vật lạ thì đem về nhà, gặp người cần cứu càng phải đem về nhà, đó là duyên phận ngày hôm nay. Nó đi chợ mua thuốc, trên đường về gặp ông, cũng là việc đã liệu trước. Chúng tôi luôn thuận theo tự nhiên. Ông muốn trả lễ hay hậu tạ, nói thật là tôi không từ chối, vì đó là tâm ý và hành động của ông, nếu ông thấy hợp tự nhiên thì ông làm; nếu ông không trả lễ hay hậu tạ, điều đó cũng không can dự đến chúng tôi. Cuộc sống ông cháu tôi trước sau không có gì thay đổi vì việc hậu tạ không phải mục đích. Đã cứu được ông thì mong ông hồi phục lại sức khỏe mới là chính yếu, không bõ công. Nên ông đừng bận tâm gì, cứ nghỉ dưỡng đã.
Lý Dành gật đầu liên tục:
- Ông dạy rất đúng. Tôi xin cảm ơn ông. Vì tôi còn phiền ông cháu ông vài ngày ở đây, ông có thể cho tôi biết tên và cách xưng hô không?
- Cháu tôi tên Thiên Thanh, năm nay 14 tuổi. Còn tôi, người quanh đây thường gọi tôi là lão mù Bạch Vân, hay ông Ba Vân, ông gọi gì cũng được.
- Cảm ơn ông. Vậy Thiên Thanh bằng tuổi con trai thứ hai của tôi, Phát Tâm, mà đã giỏi đỡ đần việc nhà quá. Tôi xin gọi ông là Bạch Vân lão gia. Tên gọi này rất hay, xin phép cho tôi hỏi thêm, đây là tên của ông hay bút hiệu từ bài thơ nào?
- Không từ bài thơ nào, cũng không phải tên thật của tôi. Chẳng qua vì đôi mắt tôi bị mù, mọi người nhìn vào thấy các đốm trắng lảng vảng, nên ai đó đã văn hoa gọi thành Bạch Vân, lâu ngày thành quen thôi. Ai gọi tôi thế nào cũng được, điều đó cũng không có gì thay đổi cuộc sống của tôi cả.
Lý Dành lão gia nhìn vào đôi mắt của ông lão, quả thật có những đốm trắng bềnh bồng như những đám mây đang bay, chỉ có điều, không gian đó không phải bầu trời mà là của cõi huyền cơ nào đó nơi lão Bạch Vân sống và có thể dự đoán mọi việc, đạt được sự thông tuệ "thuận theo tự nhiên" đáng ngưỡng mộ đối với người đời.
Tối đó, sau khi tắm xong, Lý Dành ăn ngon lành với hai ông cháu dù bữa ăn đạm bạc chỉ có 2 món, không như nhà ông mỗi ngày đều đầy ra bàn rất nhiều món giàu dinh dưỡng và cần nhiều công phu nấu nướng. Sau đó, Lý Dành ngủ một mạch đến gần trưa ngày hôm sau, thức dậy đi dạo trong vườn, cử động tay chân nhẹ nhàng, trong ngày ngồi uống trà cùng ông lão Bạch Vân, nói chuyện phiếm về trời đất, cây cỏ, rồi lại ăn tối, nghỉ ngơi. Cứ thế, năm ngày sau, Lý Dành đã cảm thấy khỏe hoàn toàn, đồng thời cũng nhớ nhà nên cáo từ hai ông cháu.
Ông kính cẩn chắp tay trước ông lão Bạch Vân dù biết ông lão không thể nhìn thấy mình, giọng cảm động:
- Bạch Vân lão gia, mấy ngày vừa rồi, tôi được ông cháu ông chăm sóc, tôi vô cùng biết ơn. Hôm nay, tôi xin phép về nhà để gia đình đỡ lo lắng. Tôi sẽ quay lại thăm ông trong vài ngày nữa. Dù biết rằng đã làm phiền ông và cháu Thiên Thanh, nhưng thật lòng, tôi rất vui về những ngày yên bình vừa qua, duyên số đã cho tôi được biết đến ông và cháu trong lúc hoạn nạn, may mắn đó là vô giá. Tôi kính cẩn và mạo muội muốn hỏi lão gia điều này: Vì vài ngày nữa, tôi sẽ quay lại hậu tạ, vài món nhỏ nhặt chắc chắn không thể báo đáp được hết ân tình của hai ông cháu, chi bằng lấy chân tình hỏi thẳng xin ý của ông và cháu muốn điều gì, như vậy tôi có cơ hội được hoàn thành ước nguyện báo đáp của mình. Nếu ông và cháu có mong muốn gì, ngay việc mua một ngôi nhà mới, tôi cũng sẵn lòng ngay, toàn tâm toàn ý được thực hiện mong muốn ấy.
Lão Bạch Vân cầm tách trà lên uống, nét mặt như đắn đo, do dự điều gì, muốn nói lại như không muốn nói.
Lý Dành càng động viên:
- Bạch Vân lão gia, xin ông đừng ngại, ông mong muốn điều gì, tôi đều vui lòng được làm. Nếu khả năng không làm được, tôi sẽ không ngại thú nhận, nên xin ông cũng đừng ngại nói thẳng. Không có ông và Thiên Thanh, tôi không thể đứng đây hôm nay, chuyện cứu mạng là ơn cả đời. Ông cứ nói thẳng, bất kỳ điều gì cũng được.
Ông lão mù nghe vậy liền nhướng lông mày lên, càng thấy rõ những đám mây trắng lãng đãng trong mắt ông. Ông điềm đạm trả lời Lý Dành:
- Nói thẳng? Nếu ông không ngại nói thẳng, vậy thì tôi cũng không thể giữ trong lòng, xem như là điều gì cần nói đành phải nói, tôi xin nói thẳng một điều: Ông… sẽ không thể thực hiện được điều ông vừa nói đâu.
Lý Dành vô cùng bất ngờ. Nhà ông hiện là một trong những gia đình giàu có nhất trong giới thương mại Nam Kỳ lục tỉnh, nếu thật sự vung tiền, ông có thể mua cả khu phố tấp nập chứ chẳng đùa, hoặc mua một món đồ quý tương đương tiền lương một chục năm của công chức bình thường cũng không phải chuyện khó, có việc gì mà ông không thể báo đáp ơn cứu mạng, trừ khi Bạch Vân lão gia muốn mua ngai vàng hay chức vị công thần, tể tướng.
- Bạch Vân lão gia, tôi sẽ cố gắng hết sức, xin cho tôi biết điều gì mà tôi không thể thực hiện được.
- Điều mà ông không thể thực hiện được là sẽ quay trở lại đây trong vài ngày nữa.
- A… Tại… tại sao?
- Ông không biết đó thôi. Khi bị nạn 5 ngày trước, ông vừa thoát được một nạn kiếp mất mạng, nên tôi có nói ông phúc lớn, mạng lớn. Nhưng đó phần riêng ông, còn nạn kiếp chung của gia đình ông thì vẫn không thể tránh khỏi, nó cũng bắt đầu cùng thời điểm ông gặp nạn mấy ngày trước. Tôi không thể nói đó là đại hạn gì, diễn biến như thế nào, tôi chỉ biết đây là kiếp nạn thất sát. Ông sẽ không mất mạng, nhưng bị vướng vào đại nạn chung, rất lâu sau mới thoát ra được.
- Kiếp nạn thất sát? Là như thế nào? Và tại sao? – Lý Dành lão gia thần hồn nát thần tính, trời đất quay cuồng, xây xẩm mặt mày, mồ hôi phút chốc ướt đẫm toàn thân, kinh hoàng nhìn ông lão Bạch Vân.
Thiên Thanh thấy vậy, nhanh nhẹn khiêng ghế đến mời Lý Dành ngồi. Lão Bạch Vân vừa rót thêm nước nóng vào ấm trà vừa trả lời:
- Như thế nào và tại sao ư? Vì ông có kiếp nạn thất sát liên quan toàn gia, phàm những ai là gia đình ruột thịt của ông đều sẽ bị liên lụy, nặng hay nhẹ tùy vào phước phần và đại hạn của mỗi người.
- Vì tôi mà liên quan mọi người ruột thịt sao? Tại sao tôi lại phải vướng vào kiếp nạn này?
- Mỗi chuyện xảy ra đều đi theo một chuỗi nhân duyên trước đó. Nhưng lúc này bàn về nguyên nhân không còn quan trọng nữa. Ông Lý Dành, chúng ta đã có nhân duyên gặp nhau, vậy ông hãy nghe lời này của tôi: Trong lúc nguy cấp nhất, nếu ông nghĩ ngay đến điều quý nhất đời ông, hãy tìm cách đưa nó đến chỗ tôi, chúng tôi sẽ giữ nó cho ông đến khi ông thoát được đại hạn.
- Tôi… tôi…
Lý Dành Vân đưa tách trà vừa rót ra trước, nói:
- Thiên Thanh, con đưa ly trà này cho ông Lý Dành. Ông hãy uống ly trà này rồi đi ngay. Tôi quý mến ông và biết chúng ta có nhân duyên với nhau, nên cùng ông uống ly này. Lần uống trà sau của chúng ta sẽ phải đợi rất lâu.
Thiên Thanh đưa Lý Dành ly trà. Ông run rẩy đưa lên miệng nhấp môi rồi cất tiếng:
- Bạch Vân lão gia, ông chắc chắn kiếp đại nạn đang đến với gia đình tôi lúc này sao?
Ông Bạch Vân gật đầu. Lý Dành vùng dậy khỏi ghế, quỳ sụp xuống nền nhà, nước mắt tuôn rơi:
- Bạch Vân lão gia, ông có cách nào giải trừ cứu giúp chúng tôi không? Ông tinh thông Dịch học, tu đạo, chẳng lẽ không có cách nào hóa giải cứu người, chẳng lẽ nhìn người có họa mà không cứu?
Lão Bạch Vân lắc đầu:
- Tôi đã nói lúc nãy: Trong lúc nguy cấp tột cùng, nếu ông có thể gửi đến tôi bảo vật quý nhất của mình, tôi sẽ giữ giùm ông cho đến lần sau gặp lại. Tôi chỉ có thể làm duy nhất điều này, rồi ông sẽ thấy điều này vô cùng quan trọng; ngoài ra, không ai có cách nào giải trừ đại kiếp này. Điều gì đến là vì nó phải đến.
Lý Dành vẫn quỳ sụp và dường như ngơ ngác không hiểu hết lời của lão Bạch Vân
Ngưng một chút, ông lão Bạch Vân ôn tồn tiếp tục:
- Biết và thông hiểu Dịch học là để cải thiện bản thân, tâm tính mỗi người trong việc thích nghi với các quy luật tất yếu của số phận và vũ trụ, không phải để chúng ta can thiệp vào định mệnh, không phải muốn làm gì thì làm. Yếu tố ảnh hưởng quan trọng đến các quy luật ấy chỉ có thể dựa vào nhân duyên và tâm năng của mỗi người. Tuy nhiên, lúc này không hợp cho việc đàm đạo này. Ngay khi bước ra khỏi cửa nhà này, điều ông cần làm là nhớ đường từ nhà ông đến đây, vì bảo vật của ông, tôi chỉ giữ khi nó được đưa đến tận cửa nhà tôi. Lý Dành, điều gì có thể nói, tôi đã nói; điều gì tôi có thể làm, cũng đã nói ra. Ông hãy uống ly trà nhân duyên của chúng ta, và mau về nhà để kịp thấy những gì còn có thể.
Lý Dành mặt mày tái nhợt, run rẩy dốc hết ly trà vào miệng, sau đó, cầm túi vải cá nhân lật đật đứng dậy, vái chào Bạch Vân lão gia và Thiên Thanh, rồi hấp tấp đi ra.
Bình luận
Chưa có bình luận