Lão Bạch Vân gầy khẳng khiu như cành cây mùa đông, liên tục hít vào, thở ra trong suốt cuộc nói chuyện để củng cố sức lực. Riêng đôi mắt của ông, dù mù nhưng toát ra vẻ tỉnh táo mẫn tiệp với những đám mây trắng bay trong đó.
Lý Dành lão gia ngồi ngay ngắn, cúi đầu trước lão Bạch Vân đầy tôn kính, nói:
- Bạch Vân lão gia, vậy ông đã biết những gì? Ông đã hỏi, hẳn nhiên có lý do quan trọng, tôi tin tưởng và kính trọng ông nhất trong đời. Tôi đã nói, việc gì ông bảo tôi làm, tôi sẽ làm không do dự. Vậy giờ tôi xin nói hết, nói thật về bí mật xa xưa này dù chưa biết tại sao ông muốn nghe về nó.
Không gian im ắng vài giây, như thể để đi ngược về tận một thời điểm nào đó, địa điểm nào đó rất cổ xưa - cội nguồn của những bí mật.
Lý Dành kể:
- Tổ tiên tôi bên Trung Quốc. Vào một năm xa xưa, lúc nạn đói hoành hành do hạn hán, người người chết như vì đói và vì nắng nóng dịch bệnh, tổ tiên tôi làm nông đã nghèo túng càng bần cùng hơn, không còn đất làm ruộng, không có tiền mua thực phẩm, trong nhà cũng chẳng còn gì để bán nên thường lang thang khắp nơi kiếm sống bằng mọi cách.
Một ngày kia, vì quá cùng quẫn, chỉ mong tìm thứ gì bán được để mua cháo cho con, ông cụ kỵ của tôi đành vào một nghĩa trang trộm mộ. Khu nghĩa trang này, nghe nói của quan lại và người có tiền, nên ông cụ kỵ không dám đào trộm những ngôi mộ mới phía ngoài, mà đi thật sâu vào phía rừng núi, vô tình thấy một ngôi mộ cổ khuất trong những bụi cây dại, đã bị bỏ hoang từ lâu. Lúc ấy, ông cụ kỵ chỉ nghĩ đơn giản rằng mộ cổ thì không còn ai thân thích đến trông nom thường xuyên, vậy cũng tránh được rắc rối nhất thời, không có suy nghĩ gì khác.
Đào xuống sâu thì thấy quan tài đá, gẩy nắp lên thì thấy khá nhiều đồ tùy táng cạnh bộ xương đã rã thành tro bụi, trang phục cổ cũng chỉ còn sót vài mảnh dù quan tài bằng đá hoa cương đóng kín, chứng tỏ ngôi mộ này đã có từ rất lâu. Ông cụ kỵ tôi đã vào tình thế đó đành mạnh gan lục lọi trong quan tài. Sau khi lấy đồ tùy táng, nhìn đến chỗ từng đặt bàn tay, ông cụ kỵ tôi thấy một cái túi da nhỏ đen sì, trong đó đựng ba đồng xu kèm một miếng da khác gấp lại. Ông cụ kỵ tôi vốn dân nhà nông, đi trộm mộ vì bất đắc dĩ, chỉ mong mau tìm được vài món tốt để bán nên cứ thế gom đồ rồi tẩu thoát, không đọc miếng da ấy, bỏ tất cả vào túi cầm về rồi quên luôn.
Lý Dành nuốt ực, tiết lộ chi tiết quan trọng nhất của câu chuyện, cũng là bí mật gia truyền mà mỗi thế hệ chỉ truyền cho đúng một người kế nghiệp gia đình:
- Thời gian sau, tình cờ tìm thấy lại cái túi nhỏ này sau khi đã bán hết đồ lấy được từ trộm mộ, tổ tiên tôi mới mở miếng da ra xem, xui khiến thế nào nhờ được người họ hàng biết đọc chữ cổ thì mới biết trên đó viết rằng:
"Ta là đại pháp sư Xuyên Niệm. Ta bốc quẻ biết trước rằng 800 năm sau sẽ có hậu nhân đến phá mộ ta, tìm thấy túi này. Những ai tìm được ba đồng xu này, ta không trách đã phá mộ mà coi như có duyên với ta, hãy đi theo nghề vàng bạc kim hoàn, ta sẽ phù hộ cho. Các ngươi chỉ cần tôn trọng mấy đồng xu này, truyền cho con cháu thờ cúng kính cẩn mỗi ngày, đặt trên bàn thờ ngang hàng với tổ tiên các người, xem nó như vật gia bảo. Những đồng xu này có sức mạnh phù hộ, cứ một năm một lần phải làm lễ dâng máu suốt bảy ngày cho nó, mỗi ngày ba giọt máu của người kế nghiệp, tạo liên kết tâm linh giúp nghề kim hoàn gia tộc hưng thịnh, nó cũng đồng thời có thể thực hiện 1 lời cầu nguyện duy nhất trong đời của người kế nghiệp thành hiện thực. Năm này đến năm khác, đời này đến đời khác không được quên lãng. Nhưng cũng có một bí mật khác, đó là tuyệt đối không cầu khấn cho tình duyên. Trong đó ta vốn phong ấn một thiên ma A-tu-la với lời chú rằng nếu ai liên kết với thiên ma cầu khấn tình duyên, dù linh ứng nhưng sau đó linh hồn người đó cũng sẽ bị phong ấn chung với hắn trong ít nhất ba kiếp. Ngoài ra, hậu họa khó lường, ta cũng không thể biết, phần còn lại nằm trong họa phúc của mỗi người."
Lão Bạch Vân hơi khựng lại, rồi ra dấu cho Lý Dành tiếp tục.
Đã qua được đoạn bí mật nhất, Lý Dành lão gia cũng thở phào, kể chuyện cũng lưu loát hơn:
- Từ đó, tổ tiên tôi theo học kỹ thuật chế tác vàng bạc, phát tài nhờ nghề này, luôn giữ ba đồng xu này như bảo vật truyền thừa của tổ nghiệp, cho đến nay đã được hơn 5 đời, dù mất gì cũng không bao giờ được làm mất quyển sổ và ba đồng xu. Còn bí mật của ba đồng xu chỉ được viết rất vắn tắt trong quyển sổ gia bảo, đại khái là căn dặn con cháu một lòng tôn kính ba đồng xu như tôn kính tổ tiên, hướng dẫn cách làm lễ dâng máu kết nối tâm linh đối với người kế nghiệp, lưu lại truyền thuyết rằng đồng xu có thể thực hiện một lời ước của người kế nghiệp. Những thông tin chi tiết hơn không được viết vào đó, chỉ truyền khẩu vào ngày làm lễ trao quyền cho người kế nghiệp gia tộc.
Lão Bạch Vân gật đầu.
Lý Dành lão gia cầm bàn tay nhăn nheo của lão Bạch Vân, giọng gần như nài nỉ:
- Bạch Vân lão gia, thật sự mà nói, câu chuyện này được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, nhưng tôi không biết mấy phần là sự thật, mấy phần là cổ tích. Tuy vậy, lòng kính trọng và sự bảo vệ đối với các đồng xu là có thật qua các đời trong gia tộc tôi. Tôi có dặn Phát Tâm đi tìm sổ, nhưng tôi không biết nó có làm được không; đằng nào chuyện đó cũng không quan trọng nữa vì từ đây, chắc Lý gia chúng tôi đã không còn đi theo nghề kim hoàn được nữa rồi, giữ được mạng đã là may mắn. Bạch Vân lão gia, tôi… tôi đã nói hết cho ông bí mật gia tộc của tôi. Bây giờ, ông hãy cho tôi biết tại sao ông hỏi điều này, có được không?
Lão Bạch Vân nhắm mắt, lại gật đầu, sau đó, mò mẫm lấy một mớ giấy trên phản, tấm nào tấm nấy viết nguệch ngoạc rất khó đọc trong ánh đèn tù mù:
- Ông biết tôi mù, nên khi tôi viết, chữ sẽ khó đọc đối với người thường, nhưng xin ông cố gắng nhìn qua những tấm giấy này đi. Đây là những quẻ tôi gieo ra từ nhiều năm nay, kết quả ra luôn giống nhau, và mỗi lần, tôi đều viết lại kết quả đó để lưu giữ cho ông đọc.
Lý Dành cầm những tờ giấy nhỏ lên, từ những tờ giấy nhàu nát đến những tờ thẳng thớm mới hơn, đều viết đại khái cùng một nội dung: "Thiên Thanh gặp nạn ít nhất 3 kiếp, yểu mệnh vì tình."
Sửng sốt, Lý Dành run run hỏi lão Bạch Vân:
- Vậy là như thế nào? Thiên Thanh… bị nạn? Có… có… liên quan đến đồng xu sao?
Lão Bạch Vân khẽ gật đầu, sau đó nói trong đau đớn:
- Vậy giờ đến lượt tôi kể cho ông nghe. Mười năm trước, khi Phát Tâm mới về đây với chúng tôi, nó rất thương tâm sau kiếp nạn gia đình mình, lúc khóc, lúc hoảng loạn, lúc như người mất hồn; nhưng lúc nào nó cũng cầm một quyển sổ và ba đồng xu. Tôi và Thiên Thanh đều không biết sổ và xu có ý nghĩa gì, chúng tôi cũng không hề đụng đến quyển sổ đó, nhưng hẳn nhiên hiểu rằng quyển sổ và đồng xu rất quan trọng với Phát Tâm. Sau một thời gian được Thiên Thanh khuyên giải, chăm sóc, ăn uống những món giúp bình tĩnh và hồi phục thân-tâm, nỗi đau của Phát Tâm cũng nguôi ngoai hơn. Hai đứa nó hàng ngày gặp nhau, nói chuyện, làm việc với nhau, rồi chúng nó yêu nhau, lấy nhau. Tôi rất ủng hộ, vì biết Phát Tâm là người tốt. Nó dành tất cả tình yêu thương gia đình để cưng chiều Thiên Thanh và chăm sóc tôi tận tụy không nề hà việc gì. Ba năm sau đó, Thiên Thanh sinh Thiên Nhi nhưng vì bị băng huyết mê man nên không biết sống chết ra sao, mạch ngày càng yếu, cả tôi cũng không làm gì khác được nên tôi và Phát Tâm đều đau khổ chuẩn bị tinh thần cho điều tệ nhất. Phát Tâm tuyệt vọng, bắt đầu có biểu hiện lạ thường, ban ngày chăm vợ không rời một bước, còn buổi tối lục đục làm gì đó ngoài sân. Tôi tuy bị mù nhưng vẫn cảm nhận rõ ràng từng tiếng động và chuyển biến lạ thường. Vài ngày cứ thế, tôi không biết chuyện gì, một đêm đành lén dò dẫm đến núp sau cánh cửa, thì nghe Tâm cầu nguyện lặp đi lặp lại nhiều lần, cúi lạy dập đầu trăm cái: "Con xin dùng máu và linh hồn của mình cầu xin cho vợ con, Thiên Thanh, bình yên tỉnh lại, là vợ con đời đời kiếp kiếp. Đây là lời cầu xin duy nhất trong đời của con, xin đồng xu linh ứng phù hộ."
Bàn tay lão Bạch Vân run rẩy khi kể lại câu nói của Tâm, vẻ mặt càng bi đát hơn:
- Khi tôi nghe đến đó giật mình làm rơi cây gậy, Tâm cũng hốt hoảng và biết đã bị lộ. Sau đó, nó thú thật với tôi rằng: Theo quyển sổ gia truyền, ba đồng xu này có thể cầu xin được việc như ý từ lễ dâng máu của người kế nghiệp của gia tộc, thực hiện một lời nguyện duy nhất trong đời của người đó. Vì quá yêu Thiên Thanh, sợ mất vợ như đã mất những người thân trước đó, nên nó dùng tới cách dùng máu cầu xu như phương cách cuối cùng. Tôi nghe vậy thì biết vậy, nhưng không tin trên đời có việc tâm linh cầu nguyện đơn giản như vậy, tôi khuyên nó đừng nên thử như vậy, dẫu sao sống chết có số, nếu can thiệp vào đều là chuyện không thuận tự nhiên; nhưng Phát Tâm đã quyết, tôi không thể cản nổi, chỉ thầm mong sao cho mọi việc đừng quá giới hạn...
Lý Dành lão gia hồi hộp cầm tay lão Bạch Vân như đang hình dung ra được cảnh con trai mình làm lễ dâng máu. Lão Bạch Vân kể tiếp, gương mặt không hề giảm đi nét đau thương:
- Quả thật, Thiên Thanh đã tỉnh lại sau bảy ngày, dần hồi phục sức khỏe. Tôi thấy kết quả ứng nghiệm như vậy lại lo lắng. Không có lời cầu nguyện nào chỉ có một chiều, luôn luôn là sự tương tác giữa hai hoặc nhiều cõi tâm linh với nhau. Tôi bắt đầu gieo quẻ cho Thiên Thanh, lần nào như lần nấy, quẻ đều ra câu mà ông vừa đọc. Tôi đã hỏi Phát Tâm nhiều lần, bản thân nó cũng không rõ có hậu quả gì không vì trong quyển sổ không viết chi tiết. Nhưng nó luôn khẳng định sẵn sàng đổi máu và linh hồn để cứu Thiên Thanh, nó không tiếc đã thực hiện lễ dâng máu. Bảy năm nay, tôi sống trong sự lo lắng đến mức hao mòn khí huyết, chỉ mong được gặp ông để hiểu hơn về bí mật của ba đồng xu. Giờ nghe ông kể rõ về lời dặn của vị pháp sư, vậy là tôi hiểu rồi. Ông Lý Dành ơi! Mọi việc hỏng rồi. Thật tai hại, thật nông nổi, thật nghiệp chướng! Tâm muốn cứu Thiên Thanh, hóa ra là hại vợ nó, hại cả bản thân.
Lý Dành nghe xong vẫn chưa hiểu đầu đuôi, cuống quít hỏi :
- Bạch Vân lão gia, hỏng là hỏng… thế nào? Không phải Thiên Thanh qua được nạn lần ấy, đã tỉnh lại và sống khỏe mạnh, vui vẻ cho đến giờ sao? Nếu có gì thì chỉ Phát Tâm chịu thôi, phải không? Tôi không hiểu lắm, ông có thể giải thích thêm cho tôi được không?
Lão Bạch Vân chậm rãi lắc đầu, giọng khàn đi mệt mỏi:
- Theo lời của vị pháp sư Xuyên Niệm kia, xin gì cũng được trừ cho tình duyên, nếu không, linh hồn sẽ bị phong ấn trong đồng xu. Nếu đúng như vậy, linh hồn của Phát Tâm sẽ bị phong ấn cùng thiên ma trong đồng xu trong ít nhất ba kiếp. Phát Tâm lại cầu nguyện xin được bên cạnh Thiên Thanh đời đời kiếp kiếp, vậy Thiên Thanh sẽ sống với ai trong ít nhất ba kiếp đây? Chính là với ba đồng xu này. Theo tôi hiểu, nếu các kiếp của Thiên Thanh, tính từ bây giờ, không tìm thấy được đồng xu, thì nó sẽ yểu mạng để tiếp tục luân hồi tìm chồng; mà nếu tìm được xu, nó cũng sẽ không được lấy ai khác vì duyên vợ chồng ràng buộc. Ông nghĩ xem, đó là hạnh phúc sao? Con trai ông cũng sẽ yểu mạng trong kiếp này vì máu của nó đã thấm vào xu, tâm linh thiên ma sẽ kết nối với nó. Một khi hai bên tâm linh tương thông, linh hồn nó sẽ bị rút khỏi cơ thể, nhập vào trong đồng xu. Đã bảy năm từ khi Phát Tâm làm lễ máu, tôi đoán là gần đến kiếp nạn của nó rồi vì “nam thất, nữ cửu”. Bảy vía của nó sẽ sớm tiêu tán. Con trai ông cũng là cháu rể của tôi, con dâu ông là cháu gái của tôi. Đứa nào bị gì, chúng ta đều đau đớn như nhau.
Lý Dành nghe giải thích của lão Bạch Vân xong đã thốt hiểu mọi việc, lập tức toàn thân bị rút cạn sức lực, nước mắt chảy ròng ròng, dập đầu xuống phản mà khóc:
- Bạch Vân lão gia, thiệt là nghiệp chướng. Tôi đã hiểu lòng ông. Tôi xin tạ tội với ông, tạ tội với Thiên Thanh. Tôi không biết làm thế nào đây. Tôi xin dập đầu tạ tội…
Lý Dành lão gia cứ thế mà dập đầu lên phản xin lỗi, ông chỉ mong chết đi ngay lúc này nếu đó là cách để tạ tội và cứu con trai, con dâu của ông.
Lão Bạch Vân đưa tay ra đỡ đầu Lý Dành lên, thì thầm:
- Vẫn còn một cách dù tôi không chắc chắn…
Lý Dành tai chưa thông tỏ lời nói vừa rồi của lão Bạch Vân thì đã nghe tiếp:
- Phải ly tán và làm lễ thay đổi thân phận.
Lý Dành há hốc miệng lặp lại:
- Ly tán? Thay đổi thân phận?
Lão Bạch Vân gật đầu, nói tiếp:
- Ông đưa Phát Tâm đi thật xa, tốt nhất là qua đất Xiêm La, ở đó có nhiều cao tăng về thuật pháp, họ có thể làm lễ thay tên đổi họ cho Phát Tâm, xóa đi dấu vết của nó trong không gian tâm linh, vậy thiên ma sẽ không tìm ra được Phát Tâm nữa. Tôi cũng sẽ làm tương tự cho Thiên Thanh. Trước đó, ta phải làm một tượng đá nhỏ để tôi làm phép giảm năng lượng tâm linh của thiên ma từ đồng xu qua tượng đá, rồi chôn cả tượng lẫn xu xuống nơi nhiều âm khí; như vậy, có thể cho chúng ta một thời gian đủ cho đến lúc làm lễ đổi thân phận. Chỉ có cách này thôi, dù không chắc cũng phải thử làm.
- Còn Thiên Nhi? Nó sẽ ở với ba hay với mẹ?
- Nó sẽ ở với ba. Ông cũng phải thay tên đổi họ cho Thiên Nhi, xóa mối liên thông phụ tử trong không gian tâm linh để thiên ma không tìm ra được linh hồn Phát Tâm. Ông hiểu ý tôi không? Ông nói Phát Tâm đưa xu cho ông rồi từ ngày mai, ông làm ngay tượng đá. Sau đó, tôi sẽ làm phép, ông tìm chỗ chôn. Ở cánh đồng gần đây có một ngôi mộ cổ, tôi nghĩ nơi đó thích hợp vì nhiều âm khí. Và chúng ta phải giữ bí mật về nơi chôn ba đồng xu. Khi chôn xong tượng đá là lúc lên đường. Tụi nó sẽ hiểu, rằng chúng ta muốn điều tốt nhất cho cả hai đứa.
Lý Dành dường như quá sức chịu đựng, sau mười năm, ngay ngày trở về với con trai, nhận con dâu và cháu gái nhỏ, ông lại phải tiếp tục nhìn thấy gia đình ly tán.
Diễn biến sau đó diễn ra gần như dự kiến, từ việc chôn tượng đá với ba đồng xu, đến việc giải thích sự phân ly cho đôi vợ chồng trẻ. Sau giây phút vĩnh biệt đẫm nước mắt, Phát Tâm và Thiên Thanh chia tay nhau.
Nhưng vài phát sinh không lường được đã xuất hiện. Người tính vẫn không thoát khỏi ý trời, vẫn luôn là như thế!
Sau khi Lý Dành lão gia dẫn con trai và cháu gái đi Xiêm La, lão Bạch Vân đột ngột mất nên chưa kịp làm lễ thay tên đổi họ cho Thiên Thanh. Còn Phát Tâm, trên đường xa xôi hiểm trở, đã phát bệnh nóng lạnh rồi mất trong một khu rừng biên giới. Lý Dành lão gia đau thương chôn con trai trong rừng, tiếp tục dẫn cháu gái đến Xiêm La. Vì không hiểu về thuật pháp và bị nỗi đau buồn từ cái chết của con trai quá lớn, Lý Dành lão gia không làm lễ thay tên đổi họ cho cháu gái để vẫn giữ họ Lý. Dù muốn tiếp tục nghề kim hoàn nhưng có lẽ vì không còn ba đồng xu phù hộ nghề nên Lý Dành lão gia liên tục thất bại, đành chuyển qua các công việc khác để kiếm sống.
Tám tháng sau, Thiên Thanh mất bất đắc kỳ tử trong một chiều mùa thu lúc đang đi ngoài đồng, gần một ngôi mộ cổ xanh rêu, có lẽ bị trúng gió độc. Ngôi nhà của hai ông cháu được một gia đình khác mua lại, người con dâu trong nhà sinh ra một đứa con gái bị bệnh ảo giác cứ đi tìm một bức tượng làm chồng, hay lang thang quanh nhà, đến năm 20 tuổi cũng đột ngột chết bất đắc kỳ tử ngoài đồng, gần ngôi mộ cổ.
Cháu gái của lão Bạch Vân và Lý Dành lão gia, Lý Thiên Nhi, lại hòa nhập cuộc sống ở Xiêm La rất tốt, học giỏi, trưởng thành đi làm nuôi ông nội và nghe ông kể lại toàn bộ câu chuyện.
Ông Ly kết thúc câu chuyện:
- Lý Thiên Nhi, cháu gái ông Lý Dành, con gái của Phát Tâm và Thiên Thanh, rời Việt Nam đến đất Xiêm La năm 1861, lúc 7 tuổi. Đến năm 1872 lấy chồng sinh con, đến năm 1896 có cháu nội. Năm 1904, đưa cho cháu nội 8 tuổi quyển sổ gia truyền cùng vài lời dặn rồi mất. Bà Lý Thiên Nhi chính là bà nội của tôi.
Bình luận
Chưa có bình luận