Độ năm 2010, ở các thôn xóm người ta hay xây đình cạnh chùa cho dân trong vùng được sum họp. Thậm chí có nơi dựng cả nhà văn hóa quanh đó, tạo nên một trung tâm giải trí cho cái đời sống tinh thần của nhân dân ta được thăng hoa.
Ngày ấy nhằm tiết xuân, lá non vừa hé, hội đình mở tự tờ mờ cho tới xế chiều. Đình rợp cờ ngũ sắc phất phơ, tiếng trống da gọi nhau thình thịch; bên hiên treo đầy lồng đèn son, mùi bánh gio, bánh răng bừa quyện khói bắp nếp thơm phức làm lòng người phơi phới. Cũng nhờ cuộc vui tưng bừng ấy mà chốn thiền môn quạnh quẽ được thơm lây: ta nghe riết tiếng chuông mõ ngân nga, thấy khói nhang vấn vít từ sáng, rồi lại thấy khách thập phương ở đâu túa về quanh quanh một cái huyện nhỏ. Người ta không hẹn mà tự hiểu ý nhau, tảng sáng, những con người xa xứ ấy đã tới chùa cầu phúc rôm rả. Có kẻ đi hội đình, tiện đường ghé qua thắp cho chùa nén nhang, có người đến đây cúng dường hoặc xin thầy gieo cho xăm quẻ. Lại có kẻ vào chánh điện chắp tay, cúi đầu lạy Phật, những người này đa phần thành kính, họ quỳ gối nuốt từng tiếng gõ mõ trì kinh của các bậc sư thầy.
Ngôi chùa ấy, tuy vậy, cũng nhỏ và cũ kỹ thôi. Từ tam môn bước vào là một khoảnh sân lát gạch Bát Tràng thẳng thớm. Giữa sân trồng một gốc đa to, rễ lồi lên như rồng cuộn. Nắng chiều hắt trên tàu đao lá mái, nhuộm mới hàng ngói vảy rồng bạc thếch trên đỉnh chùa. Nhìn lên, người ta chợt có cảm giác ánh chiều vàng là những giọt mật rừng treo lủng lẳng, chực rớt khỏi hai cái góc mái uốn ngược. Vào trong chánh điện là một mùi hương trầm đặc thù, khói trầm bảng lảng lượn lờ quanh tượng Phật sơn son thếp vàng.
Rẽ mé tả có điện thờ Đức Thánh Hiền, phía hậu là am tranh lợp ngói âm dương cho tăng trú. Mé hữu chính điện mở ra một cái hồ lớn. Hồ ấy tên là Thanh Tịnh, nước trong veo, giữa hồ tạc pho tượng Quan Âm Nam Hải, dáng đứng như sen, mặt hiền từ soi bóng nước chiều.
Giữa lúc trò bắt lợn vỡ òa trong những tiếng hò reo, con lợn đen săn mẩy thình lình phá vòng, phóng bùn bắn nước tung tóe thì chợt, trời bỗng đổ cơn mưa dầm, hột nhỏ mà mau. Người ta chen chân trú lại dưới đình hoặc vội vã vào chùa tránh gió. Dưới mái hiên gần hồ chỉ còn Lưu Nguyên – cậu thiếu niên mười bảy, thân dong dỏng, tóc bết mồ hôi – đang ôm khư khư một chiếc hộp thiếc vuông vức. Thấy mưa lây phây, cậu cởi áo khoác che vật ấy thật kín.
Bà lão thở dài, gật gù vẻ cảm thông, tay bà mân mân cái nón lá sờn:
Nguyên cũng thở dài, nhìn cái hộp chỉ còn trơ đáy sáng lóa mà ngẩn người. Rồi cậu lầm lũi trùm áo qua đầu, quay ra cổng. Mưa vẫn rắc hạt li ti, mùi đất xộc lên ngai ngái, lòng Nguyên nao nao, chắc thời tiết cũng muốn làm người ta thấy chộn rộn trong bụng. Thế là thằng bé nhớ tới chuyện hôm qua: lúc đưa cốt con chó cưng, ông hàng xóm đã cười cợt Nguyên rằng: “Xem thằng chó con đưa nồi rượu mận lên… mây vàng!” Thế là Nguyên đỏ mặt cãi lại: “Nó là bạn cháu, bác đừng đùa!” Rồi bà nội cậu lom khom đi ra, bà quắc mắt với ông hàng xóm: “Thằng bé sống có tình có nghĩa đấy chứ, bác liệu lời mà nói với trẻ con!” Ông hàng xóm vừa cười khà khà vừa gãi đầu hối lỗi, song đến tận bây giờ, tiếng cợt nhả ấy vẫn vang trong ngực Nguyên như cái nút tắc cống không cho người ta xả đi những gì tiêu cực. Nguyên đâu có muốn vậy, cậu muốn được khoáng đạt và muốn được hào phóng, nhưng chắc người ta khó mà khoáng đạt và hào phóng khi họ vừa mất đi một người bạn trung thành.
Con đường gạch cũ dẫn ra tam môn loang loáng những vũng nước nhỏ. Trời vẫn sậm sịt, mưa rơi tong tỏng suốt – cái kiểu mưa khiến người ta bồn chồn và bức bối vô cùng. Lưu Nguyên vừa đi vừa gục gặc, nước rơi trên đầu mà thằng bé thấy trong dạ buồn trĩu. Bỗng đâu, trước hai con mắt cứ dán xuống đất chợt xuất hiện một đôi hài vải. Đôi hài ấy đen tuyền, mũi cong cong, quai thêu bằng chỉ bạc, nom lạ lùng chẳng giống giày dép người thời nay. Nguyên dằn cơn buồn, chân bước chếch sang phải, miệng thì lầm bầm qua quýt câu xin lỗi.
Thế mà chưa đi được dăm bước, Nguyên lại trông thấy đôi hài ấy trở lại. Thằng bé nhíu mày, tránh đi. Ấy mà đến phen thứ ba bị chặn thì quá đáng lắm. Nguyên bật cáu, ngẩng phắt dậy:
Trước mặt cậu là một người đàn ông vận áo giao lĩnh màu xanh đậm, trên ngực thêu chìm một đôi cá. Nhìn lên, Nguyên thấy người đàn ông đội cái mũ gì rất lạ, trông như các ông quan thời xưa, thắt lưng y còn giắt một sợi ngọc bội quý, toàn thân phảng phất phong vị sử xanh. Thằng bé há hốc, chắc nỗi kinh ngạc đã tạm thời khiến cái bực mình trong Nguyên chìm xuống:
– Ủa… cosplay hả? – Nguyên gãi đầu, rồi cậu nói to hơn. – Í mà ông khỏi phí công, tôi không có tiền mua gì đâu nha!
Thấy người đàn ông toan giơ tay, Nguyên giật lùi, xua lia lịa.
Lê Quý Ly mỉm cười, tay chắp lại sau lưng, giọng y chắc nịch và đôi mắt thì đăm đăm nhìn xoáy vào cậu bé:
– Ông là ai? – Nguyên kêu to. – Mà ông tính làm gì? Ai cho ông chạm vào tôi?
Phía sau cái người đàn ông ăn mặc dị hợm kia là một bác trai trung niên độ tuổi ngũ tuần. Bác này mặc áo mưa nhựa và đang vừa tránh mưa vừa sải từng bước dài. Thấy Nguyên quát tháo vậy, bác cau mặt ngay, ừ cũng phải thôi vì bác chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì:
– Dạ không, cháu đâu có mắng bác! Cháu nói ông này mà… – Tay Nguyên chỉ người đàn ông vận áo giao lĩnh.
Bác trung niên nhìn quanh quất, thấy cổng chùa có mỗi hai người. Bác tưởng Nguyên nhờn, thế là càng gắt:
– Mày giỡn! Chỗ này chỉ tao với mày! – Rồi hậm hực xốc áo đi thẳng. Bác này bước… xuyên qua cơ thể người đàn ông nọ.
Nguyên nín thở, trố mắt nhìn lom lom theo cái bóng bác. Hình như vừa chột dạ nghĩ ra điều gì mà thằng bé quay ngoắt lại, hai con mắt giờ lom lom dòm cái kẻ kì cục trước mặt. Kẻ ấy trông vẫn ung dung lắm, y đứng chắp hai tay sau lưng, ánh mắt nhìn Nguyên như đang cười:
– Chỉ mình cậu thấy được ta thôi. Người khác không trông thấy đâu.
Í cha… phải, cái ý tưởng khiếp vía ấy làm Nguyên sợ hãi quá. Thằng bé lắc đầu quầy quậy, rồi cậu túm đại vài người sang hỏi dồn. Ai nấy bị túm cũng tròn mắt bảo không thấy chi cả, có kẻ còn khuyên cậu lên trạm xá để kịp đo huyết áp cho khỏi hoa mắt.
Nguyên líu lưỡi, lại thêm một phát hiện khiến ba hồn chín vía Nguyên lên mây. Ấy là việc đôi hài dưới chân người đàn ông không hề chạm đất mà thực chất, chúng lơ lửng:
Bình luận
Trầm Chu
Tội thằng bé 🥺